Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra kỷ nguyên quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử loài người. Dưới ánh sáng của thắng lợi này và tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã sáng tạo vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, khẳng định con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là lựa chọn tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cùng với biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm xuất hiện những nhận thức sai lầm về CNXH. Đây là nguy cơ trực tiếp ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân và định hướng phát triển đất nước. Do đó, nhận diện và phê phán các nhận thức sai lầm này vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính chiến lược, bảo đảm vững vàng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, bảo vệ tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin - nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin từ khi ra đời cho đến nay vẫn là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triên của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và giới hạn phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.
Chính những luận giải về sự tất yếu của xã hội loài người, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, mà chủ nghĩa Mác – Lênin luôn bị các thế lực thù địch phủ nhận hoặc cố tình hiểu sai, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn, cố tính xuyên tạc vì một lý do chính trị, xã hội nào đó vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người tư bản, hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, phê phán những nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một yêu cầu tất yếu.
Thứ hai, khẳng định mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
Vào đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, từ đó, Người đã nghiên cứu tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để tìm ra con đường đi của cách mạng Việt Nam. Người đã tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1]. “… Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” và “… cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[2]. Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo bởi nó phản ánh đúng nhu cầu phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, luôn nắm vững, kiên định và vận dụng sáng tạo đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xem đó là sợi chỉ đỏ, là mục tiêu, nhiệm vụ xuyên suốt qua các thời kỳ, giai đoạn của tiến trình cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhờ có đường lối đúng đắn đó, Đảng đã tổ chức, lãnh đạo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhờ đó, “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,...chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3].
Lịch sử dân tộc đã ghi nhận truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, mặc dù lợi ích của các giai cấp trong xã hội không phải lúc nào cũng đồng thuận, nhưng trước nhu cầu chung là giành độc lập cho dân tộc thì các giai cấp sẵn sàng hy sinh những lợi ích cụ bộ, gác lại những bất đồng để cùng hướng đến mục tiêu chung - giành độc lập dân tộc và ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta tiếp tục đoàn kết thống nhất để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn xem sự đoàn kết, đồng thuận xã hội là cơ sở giành thắng lợi với phương châm tiêu biểu là “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” với tất cả các lực lượng trong xã hội, không phân biệt thành phần xuất thân, dân tộc, tôn giáo...
Hiện nay, Đảng ta đang xây dựng khối đồng thuận xã hội trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Không có sự đồng thuận chính trị sẽ không có sự đồng thuận về kinh tế và kết quả sẽ không có sự đồng thuận văn hóa, xã hội. Đồng thuận chính trị là tiền đề, đồng thuận kinh tế là cơ sở và đồng thuận văn hóa, xã hội là hệ quả. Đạt được độ đồng thuận cao của xã hội cùng với những thành tựu trên thực tế cũng sẽ là những bằng chứng để phản bác với các quan điểm phủ nhận, những nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Thứ tư, từ thực trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới, đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, trở ngại trên nhiều lĩnh vực. Một trong những khó khăn trở ngại làm cản trở, làm chậm quá trình phát triển, thậm chí có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ, phá hoại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó chính là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít cán bộ cấp chiến lược.
Biểu hiện thường thấy ở những cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó là sự thờ ơ với chính trị với vận mệnh của Đảng, của dân tộc. Ở một góc độ khác, đó là sự dao động về chính trị, ngả nghiêng trong hành động, nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng; là sự “nhạt Đảng”, “nhạt lý tưởng XHCN’; giảm sút niềm tin vào CNXH và con đường đi lên CNXH do Đảng lãnh đạo…
Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng được biểu hiện thông qua sự tha hóa về đạo đức, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, chỉ nhằm vào những gì mang lại lợi ích cho mình, phe nhóm mình mà không quan tâm tới lợi ích chung của cách mạng, của Nhân dân. Nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, vi phạm nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đó là thứ giặc nội xâm vô cùng nguy hiểm ẩn núp trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu hơn 30 năm qua vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, chúng ta cần phát hiện sớm, ngăn chặn và đưa những cán bộ, đảng viên này ra khỏi các tổ chức Đảng cũng như bộ máy công quyền, để họ không còn có cơ hội chui sâu, leo cao trong bộ máy, tổ chức Đảng và hệ thống chính trị. Thực tế này đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đấu tranh, phòng, chống tham nhũng cũng như đấu tranh, phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, những kẻ cơ hội chính trị; bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt là bảo vệ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.