Giáo dục luôn là động lực nền tảng cho sự phát triển của dân tộc. Từ những sắc lệnh xóa nạn mù chữ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến các chủ trương đổi mới trong kỷ nguyên số hôm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định mục tiêu xây dựng một nền giáo dục toàn dân, tiến tới xã hội học tập, nơi mọi công dân đều có cơ hội học tập suốt đời.
Phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân "Bình dân học vụ". Ảnh minh họa TTXVN
Từ những sắc lệnh đặt nền móng cho giáo dục toàn dân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, mở ra trang sử mới cho lịch sử dân tộc – đất nước độc lập, nhân dân được làm chủ, đây là thuận lợi rất cơ bản để Đảng tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc. Tuy nhiên, đất nước Việt Nam đứng trước những khó khăn, thách thức, vận mệnh dân tộc ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trong đó nổi lên là nạn đói, mù chữ và sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước – mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là các loại “giặc”.
Đặc biệt, về giáo dục, nhằm dễ bề cai trị, thực dân Pháp tiến hành chính sách “Làm cho dân ngu để dễ trị”[1]. Vì vậy, sau khi nước Việt Nam giành lại độc lập, hậu quả để lại là trong số 20 triệu dân lúc bấy giờ thì “95% dân chúng Việt Nam mù chữ. Nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị nhân dân Việt Nam.
Nhận thức rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở một chiến dịch chống nạn mù chữ. Vì thế, Người trao cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký ban hành 3 Sắc lệnh quan trọng về giáo dục. Đó là, Sắc lệnh số 16-SL; Sắc lệnh số 17-SL, Sắc lệnh số 19-SL và Sắc lệnh số 20-SL, ngày 08/9/1945).
Sắc lệnh số 17-SL thành lập Nha Bình dân học vụ trực thuộc Bộ Giáo dục với nhiệm vụ phụ trách việc chống nạn mù chữ. Đây là cơ quan chuyên trách đầu tiên về xóa mù chữ, với nhiệm vụ tổ chức, điều hành phong trào học chữ quốc ngữ cho toàn dân. Việc thành lập Nha Bình dân học vụ cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của chính phủ trong việc chống nạn mù chữ, vốn là di sản nặng nề từ chế độ thực dân.
Sắc lệnh số 19/SL yêu cầu thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Điều này cho thấy Chính phủ đã rất quan tâm và tạo điều kiện học tập cho đội ngũ nông dân, công nhân – vốn là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ với số lượng đông đảo nhưng trình độ còn nhiều hạn chế do chịu hậu quả từ chính sách ngu dân của thực dân Pháp.
Sắc lệnh 19-SL còn quy định hạn trong 6 tháng, làng nào, đô thị nào cũng phải có lớp học ít nhất có 30 người theo học. Việc đưa ra một chỉ tiêu cụ thể như vậy tưởng có phần cứng nhắc nhưng lại thực sự đem lại hiệu quả khi trở thành mục tiêu để từng làng, từng đô thị phải nỗ lực để đạt được.
Sắc lệnh số 20-SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ, không mất tiền. Hạn 1 năm tất cả mọi người dân Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, nếu không sẽ bị phạt tiền. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, quả thực không thể không dùng biện pháp “cưỡng bách” bởi vì bên cạnh những người ham học, muốn biết chữ thì cũng còn không ít người, trong đó đa số là người lớn tuổi có tâm lý e ngại, xấu hổ nên không muốn đi học. Có thể nói những chủ trương này táo bạo, quyết liệt nhưng cũng rất đúng đắn và sáng tạo.
Đồng thời, Chính phủ ban hành sắc lệnh số 16/SL đặt ngạch Thanh tra học vụ (ngày 8/9/1945), “Để kiểm soát việc học theo đúng chương trình giáo dục của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa”[2];
Kết quả của phong trào Bình dân học vụ vượt trên cả sự mong đợi. Chỉ trong một năm (8/1945 – 8/1946), phong trào Bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học.
Những sắc lệnh Chính phủ ban hành ngày 08/9/1945 là những văn bản pháp chế hành chính rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy cuộc chiến chống “giặc dốt” thời điểm bấy giờ, đồng thời, đặt nền móng cho nền giáo dục toàn dân, hướng tới mục tiêu: “Làm cho dân có học hành”[3]. Bởi vì, muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu thì “mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[4].
Đến xã hội học tập trong kỷ nguyên phát triển của dân tộc
Trong bối cảnh thế giới có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu, cùng với những thành tựu của 40 năm sự nghiệp đổi mới đất nước; ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW, về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, xác định tầm nhìn và chiến lược cho nền giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Điểm đột phá của Nghị quyết số 71-NQ/TW là về tư duy, nhận thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo và khẳng định: “giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc”[5].
Để thực hiện sứ mệnh trên, một trong những quan điểm chỉ đạo được nêu trong Nghị quyết là: “Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, xây dựng xã hội học tập, khơi dậy mạnh mẽ các phong trào thi đua trong Nhân dân và trong toàn xã hội về học tập, tự học tập, học tập không ngừng, học tập suốt đời vì sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì tương lai của dân tộc[6]. Do vậy, cần “xây dựng nền giáo dục mở, liên thông, bảo đảm cơ hội học tập công bằng, bình đẳng cho mọi người, đáp ứng nhu cầu xã hội, thúc đẩy học tập suốt đời”
Nghị quyết 71‑NQ/TW là văn kiện chiến lược, đề cao vai trò giáo dục như quốc sách hàng đầu. Với tầm nhìn đến 2045, quyết tâm xây dựng một hệ giáo dục hiện đại, toàn diện, mở và liên kết chặt chẽ với đổi mới, sáng tạo và hội nhập quốc tế. Trong đó, xã hội học tập được đặt vào trung tâm, nhằm thúc đẩy học suốt đời, nâng cao nhận thức, năng lực toàn dân và nguồn nhân lực chất lượng cao—thực sự là động lực phát triển đột phá của đất nước.
Nghị quyết khẳng định “xã hội học tập” là mục tiêu chiến lược quốc gia. Lần đầu tiên, khái niệm “xã hội học tập” và “học tập suốt đời” được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược giáo dục – đào tạo cấp cao nhất của Đảng. Vì vậy, Nghị quyết xác định rõ: “Mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời để phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất”. Đây là nền tảng của xã hội học tập. Đồng thời, thể hiện sự đổi mới tư duy, thể chế hóa học tập suốt đời. Nghị quyết chuyển mạnh từ tư duy giáo dục theo lứa tuổi sang tư duy giáo dục mở, học tập suốt đời, học mọi nơi, mọi lúc. Tạo cơ sở pháp lý, thể chế để xây dựng hệ thống giáo dục mở, liên thông, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu học tập đa dạng của người dân.
Nghị quyết nhấn mạnh, giáo dục không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục, mà là ở vai trò liên kết ba trụ cột: Nhà trường – Gia đình – Xã hội trong quá trình giáo dục. Từ đó, xã hội học tập không chỉ diễn ra trong trường học mà còn ở doanh nghiệp, tổ chức, cộng đồng, kể cả trong gia đình.
Với những định hướng quan trọng, đột phá trong xây dựng xã hội học tập, Nghị quyết số 71-NQ/TW đã mở rộng cơ hội học tập cho mọi người dân, xây dựng hệ thống học tập linh hoạt: học trực tuyến, đào tạo từ xa, tín chỉ, công nhận kỹ năng từ thực tiễn… Đặc biệt, chú trọng nhóm yếu thế, như: người nghèo, vùng sâu vùng xa, người lớn tuổi, lao động phi chính thức.
Đồng thời, thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục – học tập không biên giới với việc ứng dụng AI, dữ liệu lớn, học liệu số để người dân có thể học tập suốt đời qua nền tảng số. Từ đó, tác động trực tiếp đến việc hình thành “công dân học tập số” – người có năng lực tự học, học chủ động, học thích nghi.
Với cam kết “Không để ai bị bỏ lại phía sau vì khó khăn tài chính” trong học tập, đã tạo động lực học tập cho người dân có điều kiện tiếp cận tri thức bình đẳng bằng những chính sách hỗ trợ, như: phát triển Quỹ học bổng quốc gia, hỗ trợ học sinh, sinh viên và người lớn học tập nâng cao trình độ.
Nghị quyết nhấn mạnh phát triển đội ngũ giáo viên và cộng đồng học tập bằng việc ban hành chính sách ưu đãi đặc thù cho nhà giáo thúc đẩy chất lượng giảng dạy ở mọi cấp học. Đồng thời, khuyến khích người giỏi ngoài ngành giáo dục tham gia dạy học để lan tỏa văn hóa học tập ra toàn xã hội.
Cùng đó, cần huy động toàn xã hội tham gia giáo dục, các doanh nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội, địa phương được giao vai trò đào tạo – bồi dưỡng nguồn nhân lực và gắn học tập với nhu cầu thực tiễn: kỹ năng nghề, kỹ năng số, kỹ năng mềm, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo...
Nghị quyết số 71-NQ/TW không chỉ là một định hướng phát triển giáo dục – đào tạo, mà còn là kim chỉ nam để xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, nhằm đưa học tập suốt đời thành nhu cầu, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân và biến học tập thành giá trị cốt lõi trong phát triển con người và quốc gia.
Điều đó tiếp tục được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh trong 9 định hướng để giáo dục là động lực then chốt của phát triển đất nước tại buổi Lễ kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành Giáo dục và khai giảng năm học 2025-2026 (ngày 05/9/2025); trong đó xác định: xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.. Ở bất kỳ độ tuổi, lĩnh vực hay nghề nghiệp nào, tất cả đều phải học để không bị tụt hậu, học để làm chủ tri thức và công nghệ, học để phát triển bản thân và góp phần xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng”; Xây dựng xã hội học tập, khuyến khích học tập suốt đời chính là nền tảng vững chắc nhất cho một dân tộc tự cường[7].
80 năm của hành trình độc lập – tự do – hạnh phúc của dân tộc Việt Nam (1945-2025), là 80 năm của hành trình xây dựng nền giáo dục toàn dân, nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người, “để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”[8].
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.108
[2] Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, Tập 1 (1945-1954), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.33
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, Tập 4, tr.175
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, sđd, tr.402.
[5] https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-71-nqtw-ngay-2282025-cua-bo-chinh-tri-ve-dot-pha-phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-11771
[6] https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-71-nqtw-ngay-2282025-cua-bo-chinh-tri-ve-dot-pha-phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-11771
[7] https://laodong.vn/thoi-su/tong-bi-thu-nhan-manh-9-dinh-huong-de-giao-duc-la-dong-luc-then-chot-cua-phat-trien-dat-nuoc-1569178.ldo
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, Tập 4, tr.175