Bước phát triển trong chủ trương, đường lối của Đảng
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), lần đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định vai trò của chính sách xã hội: “... quan điểm của Đảng và Nhà nước ... thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội”[1]. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã trình bày phương hướng về chính sách xã hội với nội dung: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[2]. Cụ thể hóa Cương lĩnh, Hiến pháp năm 2013 là bước phát triển mới trong việc thể chế hóa những tư tưởng, quan điểm và nội dung cơ bản về chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các quy định về chính sách xã hội được thể hiện chủ yếu trong Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường và một số quy định trong Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Những kết quả nổi bật trong 80 năm qua
Triển khai quan điểm, nghị quyết của Đảng và thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách xã hội. 80 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng, được các nước trên thế giới ghi nhận và ngưỡng mộ:
Một là, về dân số và thu nhập
Năm 1945, khi mới giành lại độc lập, dân số nước ta chỉ hơn 20 triệu người. Nhưng đến nay dân số Việt Nam đã hơn 100 triệu người tăng gấp 5 lần năm 1945. Đây là nguồn nhân lực dồi dào, là tài nguyên về trí tuệ và là lực lượng lao động cũng như nguồn lực tiêu dùng lớn mà rất nhiều quốc gia mơ ước. Nếu năm 1945 tuổi thọ trung bình của người Việt là 32 tuổi thì đến nay, chúng ta đã đạt 74,7 tuổi cao hơn tuổi thọ trung bình thế giới. So với năm 1945, tuổi thọ bình quân tính của Việt Nam đã tăng gấp hơn 2 lần. Chiều cao của người Việt năm 1945 là 1,58m, nhưng đến năm 2024, chiều cao trung bình của người Việt ở dộ tuổi trưởng thành, nam giới khoảng 168 cách mạng, nữ giới khoảng 156 cách mạng. Số liệu trên cho thấy, trung bình chiều cao của người Việt đã có nhiều cải thiện so với trước đây. Chỉ số phát triển con người liên tục tăng qua từng năm, hiện đứng thứ 115/191 toàn cầu. Năm 1945, Việt Nam có khoảng 2 triệu người chết đói thì đến nay chúng ta đã là nước có số lượng gạo xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới, khoảng 9 triệu tấn, thu về 5,7 tỷ USD năm 2024.
Năm 1945, khi cách mạng thành công, kho bạc của Chính phủ Việt Nam hoàn toàn trống rỗng, “không tiền” và đến năm 1986, quy mô GDP của nền kinh tế chỉ đạt 8 tỷ USD nhưng đến năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 59,5 lần. Nếu năm 1975, GDP bình quân đầu người chỉ đạt 232 đồng, tương đương 80 USD, thì đến nay, sau 80 phát triển, thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt 4.700 USD/người/năm, đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp.
Hai là, về chính sách ưu đãi với người có công. Đến nay, cả nước đã xác nhận có trên 9,2 triệu người có công, trong đó, trên 1,3 triệu người đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng năm 2025 tăng lên 2.789.000 đồng, cao hơn mức tăng lương cơ sở. Đã hỗ trợ xây mới và sửa chữa nhà ở cho 393.707 hộ người có công khó khăn về nhà ở. Cả nước có 9.637 công trình tri ân, ghi công Liệt sỹ như tượng đài, nhà bia, nghĩa trang Liệt sỹ. Trên 99% xã/phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ; 99,5% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Ngoài ra, cả nước còn thực hiện chế độ trợ cấp ưu đãi với hàng vạn thanh niên xung phong…
Ba là, về lao động, việc làm và bảo hiểm xã hội. Việt Nam từ nước người lao động không có quyền lợi gì, nhưng đến nay, hệ thống chính sách không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ, công bằng, tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều Luật liên quan đến Lao động, việc là và bảo hiểm xã hội được ban hành như: Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2024, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) năm 2020, Luật Việc làm năm 2013, cùng hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành… Do vậy, tính đến cuối năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,2 triệu người. Hằng năm giải quyết việc làm cho 1,5-1,6 triệu lượt người; tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%.
Trải qua các thời kỳ, BHXH Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu. Cả nước có gần 3,3 triệu người hưởng các chế độ hưu trí và trợ cấp BHXH hằng tháng. Tính đến cuối năm 2024, số người tham gia BHXH đạt trên 20 triệu người và đạt 42,7% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,3 triệu người, đạt 4,9% lực lượng lao động trong độ tuổi; 94,1% dân số đã tham gia BHYT. Dự kiến số người tham gia BHXH năm 2025 là 21,343 triệu người đạt 45,1% lực lượng lao động trong độ tuổi (vượt mục tiêu Trung ương giao tại Nghị quyết số 28-NQ/TW khoảng 0,1%)[3]. Tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam đã từng bước được kiện toàn theo tinh thần “Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp”.
Bốn là, về trình độ dân trí và giáo dục. Năm 1945, sau 80 năm chịu sự “khai hoá văn minh” của người Pháp, hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Nhưng tới nay, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục cấp tiểu học và tiệm cận gần đến mục tiêu hoàn thành phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở với tỷ lệ đi học chung của cấp tiểu học là 98,7%, cấp trung học cơ sở là 95,6% và trung học phổ thông là 79,9%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đến năm 2024 là 28,6%. Năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Điều này cho thấy chất lượng nguồn lao động ngày càng được cải thiện.
Năm là, về xóa đói, giảm nghèo. Sau 80 xây dựng và phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo và được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2024. Tầng lớp trung lưu đã hình thành và phát triển nhanh, ấn tượng trong những năm qua; năm 2022, tầng lớp trung lưu chiếm 13% dân số cả nước và sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026[4].
Sáu là, về các dịch vụ xã hội cơ bản. Với 80 năm cống hiến, hy sinh thầm lặng xây dựng nền y tế “khoa học, dân tộc và đại chúng”, dịch vụ y tế Việt Nam có bước phát triển vượt bậc với hệ thống bệnh viện công và tư đa dạng, chất lượng đạt chuẩn quốc tế với 47 bệnh viện trung ương, 419 bệnh viện tỉnh và 684 bệnh viện huyện, 182 bệnh viện tư nhân, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân.
Mức sống của người dân được cải thiện đáng kể. Đến năm 2024, tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố chiếm 97,6% tổng số hộ có nhà ở. Diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2024 là 26,6 m2/người, tăng nhiều so với trước đây. 99,8% hộ sử dụng điện lưới thắp sáng. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 99,0%, trong đó 59,6% hộ sử dụng nguồn nước máy. Năm 2024, khoảng 95,1% hộ gia đình đã sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
Tiện nghi sinh hoạt của hộ gia đình có bước phát triển vượt bậc so với trước đây. Tỷ lệ hộ gia đình có ti vi, đài là 91,9%. Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại di động, máy tính bảng, điện thoại tăng thêm từ 91,7% năm 2019 tới 97,3% năm 2024. Đa số các hộ gia đình sử dụng mô tô, xe gắn máy, ô tô… cho mục đích sinh hoạt của hộ.
Nhìn lại những thành tựu đạt được về chính sách xã hội của Việt Nam sau 80 xây dựng và phát triển đã thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ những chính sách cụ thể về xóa đói, giảm nghèo, về bảo hiểm, hưu trí, trợ cấp xã hội, về giải quyết lao động, việc làm, người có công với cách mạng, vùng miền núi, hải đảo… đã ngày càng hoàn thiện và thực tiễn đã chứng minh. Đây chính là cơ sở, là nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.