Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết về những lợi thế căn bản của đất nước ta bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc: “Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu”[1]. Đó không chỉ là niềm tự hào về tài nguyên quốc gia mà còn là một định hướng chiến lược về sự phát triển hài hòa, tự chủ. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đang tiến bước vào kỷ nguyên phát triển mới, tầm nhìn ấy lại soi đường cho một chủ trương mang tính lịch sử: Tái cơ cấu không gian phát triển, sáp nhập các tỉnh duyên hải miền Trung với các tỉnh Tây Nguyên để hình thành những đơn vị hành chính mới sở hữu trọn vẹn cả “rừng vàng” và “biển bạc”.
Sự kết hợp này tạo ra một lợi thế “địa lợi” vô song: Vùng cao nguyên trù phú với kho tàng nông, lâm, khoáng sản và văn hóa đại ngàn được kết nối với dải ven biển năng động cũng các cảng biển nước sâu, chuỗi đô thị sầm uất và ngành du lịch dịch vụ hiện đại. Tuy nhiên, để “rừng vàng” và “biển bạc” thực sự cộng hưởng tạo ra sức mạnh đột phá, một yếu tố mang tính tiên quyết, một “đòn bẩy” chiến lược cần được ưu tiên hàng đầu, đó chính là hành lang kết nối Đông - Tây- hệ thống hạ tầng huyết mạch kiến tạo tương lai, hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường.
Hành lang kết nối Đông - Tây: Trục xương sống kiến tạo không gian kinh tế thống nhất, tối ưu hóa chuỗi giá trị “rừng - biển”
Thứ nhất, hành lang kết nối Đông - Tây là con đường ngắn nhất để hình thành chuỗi giá trị nông - lâm - thủy sản hoàn chỉnh và hiệu quả. Hành lang kết nối Đông - Tây giúp rút ngắn thời gian vận chuyển nông sản công nghệ cao từ khu vực Tây Nguyên đến trung tâm chế biến tại các khu kinh tế ven biển miền Trung; từ đó, thông qua các cảng biển, sản phẩm được xuất khẩu đi khắp thế giới. Chi phí vận tải giảm, hao hụt sau thu hoạch được hạn chế tối đa, giá trị sản phẩm tăng vọt. Dòng chảy kinh tế trở thành một vòng tuần hoàn tương hỗ, nơi vùng nguyên liệu và vùng chế biến - xuất khẩu gắn kết hữu cơ, mang lại lợi nhuận tối ưu cho người nông dân và tạo ra hàng vạn việc làm cho người lao động ven biển.
Thứ hai, hành lang kết nối Đông - Tây là “xương sống” cho ngành du lịch liên hoàn, độc đáo, mang thương hiệu quốc gia. Thay vì những chuyến đi đơn lẻ, du khách có thể dễ dàng trải nghiệm hành trình “một cung đường, nhiều di sản”. Sự kết nối này biến những sản phẩm du lịch riêng lẻ tại các địa phương thành một chuỗi trải nghiệm đa dạng, hấp dẫn, kéo dài thời gian lưu trú và tăng mức chi tiêu của du khách và biến các chương trình du lịch khám phá “rừng vàng ,biển bạc” trở thành một sản phẩm du lịch chủ lực, độc đáo của Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới.
Ảnh: Tuyến Quốc lộ 19 kết nối duyên hải miền Trung với Tây Nguyên
( Ảnh: Nguyễn Dũng, Báo Đầu tư)
Hành lang kết nối Đông - Tây củng cố “thế trận lòng dân”, giữ vững an ninh quốc phòng và nâng tầm vị thế quốc gia
Về quốc phòng - an ninh, đó là thế trận phòng thủ liên hoàn, có chiều sâu. Tây Nguyên là “nóc nhà của Đông Dương”, là “phên dậu” của Tổ quốc. Duyên hải miền Trung là “cửa ngõ” ra Biển Đông. Hành lang kết nối Đông - Tây sẽ kết nối vững chắc “hậu phương” Tây Nguyên và “tiền tuyến” ven biển, cho phép triển khai lực lượng, hậu cần một cách nhanh chóng, cơ động trong mọi tình huống, góp phần tạo nênsức mạnh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Về đối ngoại và hội nhập, đó là “cánh cửa” nâng tầm vị thế địa chính trị của Việt Nam. Các hành lang kết nối Đông - Tây sẽ biến các cảng biển miền Trung thành cửa ngõ ra biển tự nhiên, ngắn nhất và thuận lợi nhất cho cả khu vực Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan. Khi được đầu tư đồng bộ, khu vực này sẽ trở thành một trung tâm trung chuyển hàng hóa sầm uất của Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS). Việt Nam sẽ có lợi thế để chủ động kiến tạo “sân chơi”, thu hút đầu tư, gia tăng ảnh hưởng và sự gắn kết về lợi ích với các nước láng giềng.
Về xã hội, đó là cầu nối của “nhân hòa”, của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng được hệ thống hành lang kết nối Đông - Tây giúp mở ra nhiều cơ hội việc làm, học tập, y tế, văn hóa đến với đồng bào các dân tộc thiểu số ở những vùng sâu, vùng xa, từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền ngược và miền xuôi; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên; qua đó củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hướng tới xây dựng Việt Nam giàu mạnh và hùng cường
Sáp nhập các địa phương, sắp xếp lại các đơn vị hành chính tạo không gian phát triển mới cho miền Trung - Tây Nguyên nói riêng, cả nước nói chung, là một quyết sách đúng đắn, một cơ hội lịch sử để đánh thức những tiềm năng còn đang phân tán tại khu vực này. Đầu tư vào hạ tầng kết nối Đông - Tây là kiến tạo nên những dòng chảy của sự thịnh vượng, những xa lộ của sự gắn kết và những trục đỡ cho an ninh quốc gia. Đây chính là “chiếc chìa khóa vạn năng” để yếu tố “địa lợi” (rừng và biển) gặp được “thiên thời” (cơ hội phát triển và hội nhập), trên nền tảng của “nhân hòa” (sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân). Đó là con đường ngắn nhất, bền vững nhất để xây dựng khu vực miền Trung - Tây Nguyên giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, đẹp về văn hóa, thực sự mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân./.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.374.