Ngày 24/1/2025, Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW “về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”. Nghị quyết đã nhìn nhận lại những thành tựu nổi bật về hội nhập quốc tế của Việt Nam sau 40 năm đổi mới, đồng thời vạch rõ những mục tiêu, nhiệm vụ tiếp theo để đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới.

Ba thành tựu nổi bật của hội nhập quốc tế Việt Nam

Có thể khẳng định, sau gần 40 năm Đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, khá toàn diện, góp phần vào gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước và đã chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện; tích cực đóng góp vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong ứng phó với các thách thức toàn cầu và thúc đẩy hợp tác vì phát triển hữu nghị và quan hệ giữa các quốc gia.

 Theo đó, hội nhập quốc tế đạt được 3 kết quả, thành tựu nổi bật.

Một là, hội nhập quốc tế đã góp phần mở rộng và làm sâu sắc, nâng tầm quan hệ của Việt Nam với các đối tác, góp phần tạo cục diện chiến lược thuận lợi, góp phần củng cố, tạo môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; có quan hệ, khuôn khổ đối tác với 38 nước (gồm có Đối tác toàn diện, Đối tác chiến lược, Đối tác chiến lược toàn diện - trong đó có tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc), là thành viên của trên 70 tổ chức khu vực và thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 259 chính đảng, với 119 quốc gia trên thế giới.

Hai là, hội nhập quốc tế về an ninh quốc phòng không chỉ phục vụ mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. Một trong những phương hướng của Nghị quyết số 59-NQ/TW là phấn đấu đưa hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh là một trong những trụ cột của hội nhập quốc tế, đặc biệt trong quan hệ với các đối tác quan trọng.

Ba là, hội nhập quốc tế đã thực sự trở thành một động lực quan trọng để nâng cao nội lực, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước, trong đó có phát triển khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, y tế; đưa nền kinh tế Việt Nam lớn mạnh, hội nhập sâu rộng với thế giới. Cụ thể như, từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, có quy mô kinh tế tăng gấp gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD; có quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP của thế giới và mạng lưới của 20 hiệp định thương mại tự do (FTA) (trong đó có 17 hiệp định đang có hiệu lực); là một trong 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới, tốp 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thu hút đầu tư nước ngoài; tốp 10 quốc gia hàng đầu thế giới có lượng kiều hối lớn....

Hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên

Nghị quyết số 59-NQ/TW nhấn mạnh quan điểm: Cùng với việc tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên và phải phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, kết hợp với quốc phòng-an ninh trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trong đó lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể, động lực, lực lượng chủ công và đối tượng thụ hưởng chính các lợi ích của hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế phải dựa trên cơ sở nội lực có vai trò quyết định và phát triển, phát huy tối đa nội lực, đi đôi với tranh thủ hiệu quả ngoại lực là quan trọng; tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, kết hợp với bổ sung cho nội lực.

Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; hợp tác để đấu tranh và đấu tranh để thúc đẩy hợp tác. Trong hội nhập, phải thể hiện đúng tinh thần là đối tác tích cực, có trách nhiệm và tâm thế phải chuyển từ xin nhận, gia nhập, tham gia sang chủ động đóng góp và xây dựng, định hình và sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm vào công việc chung của cộng đồng quốc tế.

Hội nhập quốc tế phải đồng bộ, toàn diện, sâu rộng; trong đó, các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong một chiến lược tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm.

Về mục tiêu của hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 59-NQ/TW đặt ra mục tiêu tổng quát góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực vào phát triển và bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa; tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh và bền vững; tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam để phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa...

Cùng với đó là một mục tiêu cụ thể như phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu; ít nhất 40% tổng số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo. Đưa Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới. Hoàn thành cơ bản các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc; đưa nền giáo dục và hệ thống y tế Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực....

Nghị quyết số 59-NQ/TW khẳng định qua quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam có thêm nhiều điều kiện để đạt được những thành tựu mới, mang tính đột phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.