Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - Nền tảng pháp lý và giá trị nhân văn
Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước toàn thể quốc dân đồng bào sáng ngày 02//9/1945 là lời tuyên bố đanh thép với toàn thế giới về quyền tự quyết của dân tộc, quyền con người và xây dựng một nhà nước kiểu mới của Việt Nam.
Về giá trị về quyền dân tộc tự quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (năm 1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (năm 1789) để nêu rõ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[1]. Như vậy, quyền dân tộc tự quyết trở thành nền móng cho mọi chính sách phát triển, là cơ sở để thiết lập một xã hội công bằng, văn minh, không còn bị chi phối bởi ngoại bang, thực dân hay phong kiến.
Về giá trị về quyền con người, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết nối chặt chẽ giữa quyền dân tộc và quyền con người, thể hiện sự đặc sắc và tiến bộ của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 so với các bản tuyên ngôn trước đó: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay... dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[2]. Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ là một tuyên bố về chính trị, pháp lý, mà còn là tuyên ngôn về đạo lý, văn hóa và khát vọng phát triển bền vững. Đến nay, việc hiện thực hóa các quyền cơ bản của con người đã trở thành trọng tâm trong mọi chiến lược phát triển đất nước.
Về giá trị về xây dựng một nhà nước kiểu mới, một nội dung then chốt khác của Tuyên ngôn độc lập là định hình một mô hình nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân và vì dân. Không chỉ phủ định chế độ thực dân, phong kiến, Tuyên ngôn độc lập còn đặt nền móng cho mô hình quản trị quốc gia hiện đại, trong đó lấy người dân làm trung tâm và chủ thể phát triển, phát huy trí tuệ, sức mạnh và quyền làm chủ của nhân dân. Đây chính là mô hình phát triển dựa vào dân, vì dân, rất gần với quan điểm phát triển bền vững hiện nay.
Những giá trị cốt lõi của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 tiếp tục giữ nguyên tính thời sự trong tiến trình phát triển mới của dân tộc. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, để hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc, cần vận dụng sâu sắc tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập, từ đó chuyển hóa thành các chương trình hành động cụ thể, xây dựng Đồng bằng song Cửu Long sinh thái - văn minh - hiện đại.
Từ “Độc lập, Tự do” đến quyền tự chủ trong hoạch định chiến lược phát triển cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045xác định rõ mục tiêu đến năm 2030: “Phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhanh và bền vững, sinh thái, văn minh, hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước, là trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, có giá trị gia tăng cao...”[3]. Có thể nói, Nghị quyết số 13-NQ/TW đã thể hiện rõ quyền tự chủ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong hoạch định tương lai, phù hợp với nguyên tắc của Tuyên ngôn độc lập, người dân và chính quyền địa phương là chủ thể của công cuộc xây dựng và phát triển bền vững vùng.
Từ “Quyền mưu cầu hạnh phúc” đến các chính sách lấy người dân làm trung tâm
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói đến quyền dân tộc mà còn nhấn mạnh quyền con người, đặc biệt là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, “hạnh phúc” không còn là khái niệm trừu tượng mà đã và đang được cụ thể hóa và hiện thực hóa thông qua các chính sách xã hội lấy người dân làm trung tâm của phát triển. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều chính sách phát triển toàn diện con người đã được triển khai sâu rộng, đặc biệt thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức rất cao 8,6% (năm 2016) xuống còn 2,1% (năm 2024), thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của cả nước (2,3%) và chỉ xếp sau khu vực Đồng bằng sông Hồng (0,5%) và Đông Nam Bộ (0,2%)[4]. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế toàn vùng đạt 89,6% (năm 2022) tăng hơn so với 87,1% (năm 2018)[5]. Độ bao phủ của bảo hiểm y tế ngày tăng lên; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, trường học được kiên cố hóa, tỷ lệ trẻ em đến trường đúng độ tuổi tăng đều mỗi năm. Chỉ số phát triển con người (HDI) của vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 đã được cải thiện hơn so với năm 2018. Chỉ số này của các địa phương dao động từ 0,683 đến 0,742; trong đó, một số tỉnh như Cần Thơ (0,751), Long An (0,732), Vĩnh Long (0,733) có chỉ số HDI tiệm cận mức cao (từ 0,7 – 0,799)[6]. Hệ thống hạ tầng xã hội tại Đồng bằng sông Cửu Long được đầu tư mạnh mẽ. Bệnh viện đa khoa khu vực, các thiết chế văn hóa cấp cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, sân chơi cộng đồng... đã và đang trở thành “hạ tầng của hạnh phúc”. Những công trình này không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn thúc đẩy sự phát triển toàn diện, bền vững cho cộng đồng.
Ảnh: Mô hình lúa - tôm ở Cà Mau được xem là mô hình bền vững ở vùng chịu ảnh hưởng mặn (Nguồn: Báo Nhân dân điện tử)
Từ nhà nước “của dân, do dân, vì dân” đến phát huy sức mạnh cộng đồng trong kiến tạo sự phồn vinh
Một trong những nội dung đặc sắc và tiến bộ của Tuyên ngôn độc lập là định hình một nhà nước mới của dân, do dân, vì dân - nhà nước mà trong đó, nhân dân không chỉ là đối tượng được phục vụ, mà còn là chủ thể kiến tạo sự phát triển. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, tinh thần này được cụ thể hóa rõ nét qua việc triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là công cụ quan trọng để huy động nội lực cộng đồng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tại tỉnh An Giang, mô hình “Người dân hiến đất làm đường, xây trường” đã góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới sớm hơn dự kiến. Tại Cà Mau, người dân được trực tiếp tham gia giám sát các công trình chống sạt lở, hồ chứa nước, trạm bơm phục vụ sản xuất - giúp giảm thiểu lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư. Đặc biệt, sự tham gia của người dân trong các dự án thích ứng với biến đổi khí hậu như quản lý nước ngọt, nước mặn, bảo vệ rừng ngập mặn, cảnh báo xâm nhập mặn… đã cho thấy ý thức cộng đồng và trách nhiệm công dân ngày càng được nâng cao. Đó chính là minh chứng cho một nhà nước “vì dân” như Tuyên ngôn độc lập từng khẳng định - nơi người dân vừa là đối tượng được phục vụ, vừa là chủ thể kiến tạo hạnh phúc.
Giải pháp đột phá để “khát vọng phồn vinh, hạnh phúc” không chỉ là khẩu hiệu
Để hiện thực hóa các giá trị của Tuyên ngôn độc lập trong bối cảnh mới, Đồng bằng sông Cửu Long cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, đột phá cả về tư duy, thể chế, khoa học công nghệ và phát huy vai trò chủ thể của người dân.
Thứ nhất, tập trung xây dựng chính sách với tinh thần lấy con người là trung tâm. Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu đã đặt nền tảng cho tư duy phát triển thuận theo quy luật tự nhiên, thích ứng chủ động với biến đổi khí hậu, thay vì can thiệp thô bạo vào môi trường. Cần tiếp tục nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ và người dân về tư duy phát triển bền vững, lấy hạnh phúc và chất lượng sống của con người làm thước đo thay vì chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, đẩy mạnh liên kết vùng, xây dựng chính sách đặc thù. Xây dựng cơ chế điều phối vùng đủ mạnh, như Ban Điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thẩm quyền thực thi, điều hành các dự án liên vùng, vượt qua rào cản địa giới hành chính. Hoàn thiện hệ thống chính sách đặc thù, đặc biệt trong các lĩnh vực đất đai cho chuyển đổi sinh kế, chính sách tài chính xanh, thu hút đầu tư vào hạ tầng chống sạt lở, chuyển đổi nông nghiệp và năng lượng tái tạo.
Thứ ba, tăng cường phát triển khoa học công nghệ và nguồn lực. Đẩy mạnh nông nghiệp thông minh và kinh tế tuần hoàn, như canh tác lúa - tôm luân canh ở Cà Mau, mô hình nhà màng, tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, nâng cao kỹ năng canh tác cho nông dân, thúc đẩy khởi nghiệp nông nghiệp, đào tạo kỹ thuật số, đặc biệt cho thanh niên và phụ nữ. Đa dạng hóa nguồn vốn, ưu tiên các nguồn lực tài chính xanh, tín dụng ưu đãi, hợp tác công tư (PPP) cho các công trình trọng điểm như đường ven biển, hệ thống thủy lợi liên vùng, trung tâm logistics vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ tư, phát huy vai trò chủ thể của người dân. Quán triệt và thực hiện tinh thần “nhà nước của dân, do dân và vì dân” trong Tuyên ngôn độc lập, người dân Đồng bằng sông Cửu Long cần được trao quyền để trở thành trung tâm của quá trình chuyển đổi. Theo đó, cần nâng cao năng lực cộng đồng, hỗ trợ các mô hình sinh kế bền vững như hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ tự quản. Tăng cường dân chủ cơ sở, minh bạch thông tin quy hoạch, đầu tư, giúp người dân giám sát các dự án hạ tầng và chủ động đề xuất sáng kiến cộng đồng. Đào tạo kỹ năng thích ứng biến đổi khí hậu, hỗ trợ kỹ thuật, tài chính để người dân tự đổi mới sản xuất, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như rừng ngập mặn, đồng cỏ ngập nước, sông rạch.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ là lời tuyên bố khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn là kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tại Đồng bằng song Cửu Long, các giá trị của bản Tuyên ngôn độc lập đã, đang và sé tiếp tục được phát huy mạnh mẽ để kiến tạo một vùng đất phồn vinh, thịnh vượng, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr.3
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr.3
[3] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[4] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2024, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.1036
[5] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2023, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
[6] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2024, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.1025