
Vai trò của nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn có vai trò tương tự như hoạt động thăm khám, xét nghiệm trong y học: cung cấp cơ sở khoa học, dữ liệu và luận cứ để người lãnh đạo, quản lý đưa ra quyết định đúng đắn. Giống như bác sĩ không chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân mà cần kết quả xét nghiệm đa chiều, người lãnh đạo cũng không thể chỉ dựa vào trực giác hay kinh nghiệm chính trị, mà phải dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc về kinh tế, xã hội, văn hóa, tâm lý, dân tộc, tôn giáo, môi trường và các lĩnh vực liên quan.
Khoa học xã hội và nhân văn giúp nhận diện đúng bản chất vấn đề, xác định trọng tâm, thứ tự ưu tiên và lựa chọn giải pháp phù hợp trong hoạch định chính sách phát triển cũng như trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các ngành khoa học xã hội, dù mỗi ngành chỉ phản ánh một khía cạnh, khi được kết hợp liên ngành sẽ tạo nên cái nhìn toàn diện về đời sống xã hội và chính trị, tránh những quyết định phiến diện, cảm tính.
Thực tiễn đổi mới đất nước gần 40 năm qua cho thấy, việc tổng kết định kỳ các chặng đường phát triển luôn gắn chặt với nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Lãnh đạo chính trị định hướng chiến lược, còn khoa học xã hội và nhân văn cụ thể hóa bằng điều tra, phân tích, đánh giá và dự báo. Hai hoạt động này có phương thức khác nhau nhưng bổ trợ chặt chẽ cho nhau.
Khoa học xã hội và nhân văn càng phát triển thì hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý càng cao. Để làm được điều đó, cần mở rộng không gian học thuật, gắn nghiên cứu với thực tiễn hoạch định chính sách và tăng cường liên kết liên ngành, từ đó, nâng cao năng lực dự báo chiến lược, phục vụ phát triển bền vững đất nước.
Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc
Trong bối cảnh kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam, nơi mà sự hội nhập quốc tế sâu rộng, Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang định hình lại cấu trúc xã hội và văn hóa, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vốn được xây dựng vững chắc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta - trở thành một nhiệm vụ chiến lược mang tính sống còn. Nền tảng tư tưởng này không chỉ là kim chỉ nam cho sự lãnh đạo của Đảng mà còn là nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững của dân tộc, giúp định hướng hành động trong môi trường đầy biến động và thách thức. Để bảo vệ một cách hiệu quả nhất, cần một cách tiếp cận toàn diện, kết hợp giữa việc củng cố nội lực lý luận, đổi mới phương thức tuyên truyền và ứng phó linh hoạt với các yếu tố ngoại sinh, nhằm bảo đảm tính bền vững và sức sống của hệ thống tư tưởng này trong lòng quần chúng nhân dân.
Trước hết, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng phải bắt nguồn từ sự củng cố và phát triển lý luận nội tại, thông qua việc không ngừng nghiên cứu và làm phong phú thêm kho tàng lý luận của Đảng. Coi trọng việc củng cố và phát triển lý luận của Đảng trên cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn một cách nghiêm túc, thường xuyên và có hệ thống. Lý luận chỉ thực sự có sức sống khi được bổ sung, phát triển từ thực tiễn sinh động của đất nước và thế giới. Việc tổng kết thực tiễn đổi mới, nghiên cứu các vấn đề mới nảy sinh như bất bình đẳng xã hội, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, quản trị quốc gia hiện đại… sẽ góp phần làm phong phú và nâng cao sức thuyết phục của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.
Thứ hai, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn phải đảm nhận vai trò dự báo và cảnh báo sớm các nguy cơ đối với nền tảng tư tưởng của Đảng. Thông qua nghiên cứu liên ngành, kịp thời nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, các hình thái ý thức hệ mới và phương thức lan truyền của chúng, nhất là trên không gian mạng. Các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn không chỉ dừng ở việc bác bỏ mà phải kiến tạo những luận cứ mới, mang tính thuyết phục cao đối với cả công chúng trong nước lẫn dư luận quốc tế, đặc biệt trong các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, mô hình phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cần đóng vai trò cầu nối giữa lý luận và thực tiễn thông qua việc chuyển giao tri thức một cách sáng tạo vào hệ thống giáo dục, tuyên truyền và hoạch định chính sách. Các thành quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn phải được thể hiện sinh động trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong truyền thông chính thống và trong quá trình xây dựng, triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy, cần một cơ chế đãi ngộ, đầu tư và tổ chức phù hợp với tính chất mặt trận tiên phong của lĩnh vực này. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao vị thế của khoa học xã hội và nhân văn trong hệ thống ưu tiên quốc gia, tăng cường ngân sách nghiên cứu trọng điểm, xây dựng đội ngũ các nhà khoa học trẻ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ quốc tế và khả năng tác chiến trên không gian tư tưởng toàn cầu.
Thứ tư, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam hiện nay không còn là xu hướng tương lai mà đã trở thành một công cụ chiến lược then chốt, đặc biệt trong nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. AI không thay thế nhà nghiên cứu, mà trở thành “người trợ lý siêu việt” giúp nâng cao đáng kể năng lực nhận diện, phân tích, dự báo và phản biện trên mặt trận tư tưởng - văn hóa. AI là công cụ mạnh mẽ nhất để giám sát và phân tích dư luận xã hội trên quy mô lớn và theo thời gian thực. Đồng thời, AI hỗ trợ xây dựng hệ thống phản biện tự động và bán tự động. AI là nền tảng để xây dựng “phòng thí nghiệm tư tưởng ảo” - môi trường mô phỏng nơi các nhà nghiên cứu có thể thử nghiệm tác động của các chính sách tư tưởng, các chiến dịch truyền thông hoặc các kịch bản khủng hoảng thông tin trước khi triển khai thực tế. Đây là hướng đi mà một số quốc gia tiên tiến đã thực hiện thành công và Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu rất hứa hẹn.
Thứ năm, nghiên cứu phát triển hệ thống bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng dựa trên sự mô phỏng cơ chế sinh học của hệ miễn dịch tự nhiên, do các tổ chức khoa học xã hội và nhân văn làm cơ quan thiết kế và vận hành trung tâm. Khi đó, thiết lập một hệ thống bao gồm nhiều mô hình AI chuyên biệt ở các tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn mà có kết nối với nhau theo dạng hệ miễn dịch tự nhiên. Trong hệ đó, bộ "gen tư tưởng" là nền tảng tư tưởng của Đảng ta và hệ miễn dịch tự nhiên này sẽ coi toàn bộ các luận điệu sai trái, thù địch là các "kháng nguyên" xâm nhập khi chúng xuất hiện trên không gian mạng. Hệ thống bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ tự động kích hoạt hệ miễn dịch tự nhiên của mình để chống lại các luận điệu sai trái, thù địch đó bằng việc phát tín hiệu về trung tâm hoặc tới các chuyên gia phản bác các luận điệu sai trái, thù địch. Đây là biện pháp duy nhất hiện nay để có thể chuyển từ tư duy “phòng thủ bị động, chữa cháy” sang “chủ động tạo miễn dịch cộng đồng tư tưởng” theo đúng nghĩa sinh học. Nếu được triển khai chính thức, đây sẽ là mô hình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hoạt động theo nguyên tắc miễn dịch học, do chính các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn làm “bộ não trung ương”./.
