Sau khi thực hiện sáp nhập theo Nghị quyết số 2020/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, logistics đã trở thành “huyết mạch” của nền kinh tế, quyết định sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của địa phương, doanh nghiệp. Với vị trí chiến lược, hạ tầng kết nối đa dạng, cùng sự chủ động trong công tác quy hoạch, Ninh Bình đang nắm giữ nhiều cơ hội để bứt phá, phát triển logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn, góp phần đưa tỉnh phát triển nhanh và bền vững.

Trong nền kinh tế hiện đại, logistics giữ vai trò then chốt như hệ tuần hoàn của nền sản xuất - thương mại, không chỉ bảo đảm dòng chảy liên tục của hàng hóa, nguyên vật liệu và dịch vụ từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng, mà còn góp phần tối ưu chi phí, nâng cao hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng, thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số.Với Ninh Bình, logistics vừa là động lực tăng trưởng, vừa là “chìa khóa” mở rộng không gian phát triển liên vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, công nghiệp, công nghệ cao. Ninh Bình có vị trí chiến lược, tiềm năng trở thành trung tâm logistics của khu vực Bắc Bộ. Tỉnh đã thu hút nhiều khu công nghiệp, hình thành chuỗi cung ứng hàng hóa, song vẫn tồn tại điểm nghẽn về quy hoạch, vốn, nhân lực và liên kết vùng. Để phát triển logistics bền vững, Ninh Bình tập trung hoàn thiện quy hoạch, đầu tư hạ tầng, chuyển đổi số, phát triển doanh nghiệp và nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy logistics xanh và cơ chế công - tư, hướng tới trở thành trung tâm logistics liên vùng hiện đại.

Khai thác thế mạnh

Ninh Bình giữ vị trí chiến lược ở cửa ngõ cực Nam đồng bằng Bắc Bộ, là điểm giao thoa giữa ba vùng kinh tế - địa lý trọng yếu: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Vị trí này giúp tỉnh trở thành đầu mối giao thương thuận lợi với Thủ đô Hà Nội, các trung tâm kinh tế phía Bắc, đồng thời mở rộng liên kết với Thanh Hóa, Nghệ An và vùng duyên hải miền Trung.

Với diện tích gần 4.000 km², dân số hơn 4,4 triệu người, Ninh Bình sở hữu hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại. Ngoài các tuyến quốc lộ huyết mạch, tỉnh còn có tới 5 tuyến cao tốc đi qua, kết nối thuận tiện với cảng biển và cảng hàng không quốc tế, tạo điều kiện phát triển vận tải và thương mại liên vùng. Tuyến đường sắt Bắc - Nam dài hơn 94 km cùng hệ thống cảng, bến thủy nội địa trên sông Đáy và tuyến kênh nối Đáy - Ninh Cơ đã mở ra khả năng phát triển vận tải đa phương thức, thúc đẩy mô hình logistics xanh, giảm chi phí vận chuyển và áp lực giao thông đường bộ.

Bên cạnh đó, Ninh Bình đang nổi lên như một trung tâm công nghiệp năng động với 32 khu công nghiệp và khu kinh tế Ninh Cơ quy mô gần 14.000 ha. Nhiều khu đã lấp đầy trên 90%, thu hút hơn 1.100 doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động trong các lĩnh vực dệt may, giày dép, linh kiện điện tử, ô tô, xi măng… Từ những lợi thế về vị trí, hạ tầng và công nghiệp, Ninh Bình đang hội tụ đầy đủ điều kiện để trở thành trung tâm logistics quan trọng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và cả nước.

Khắc phục điểm nghẽn

Trong thời gian qua, tỉnh Ninh Bình cũng đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, minh bạch hóa thủ tục, tổ chức đối thoại định kỳ với doanh nghiệp. Nhờ đó, nhiều dự án lớn đã và đang được triển khai như Nhà máy thép xanh số 1 Xuân Thiện Nam Định, Nhà máy thép xanh Xuân Thiện Nghĩa Hưng hay Khu công nghiệp Dệt may Rạng Đông. Đây không chỉ là nguồn hàng hóa khổng lồ cho logistics mà còn là cơ hội để phát triển dịch vụ logistics tích hợp, giá trị gia tăng cao.

Tuy nhiên, thực tế phát triển logistics tại Ninh Bình cũng bộc lộ nhiều “điểm nghẽn”. Quy hoạch logistics còn chậm, thiếu trung tâm quy mô vùng và tính liên kết, chưa khai thác hiệu quả vai trò “đầu mối giao thương” giữa đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ninh Bình chưa có khu logistics hiện đại; kho bãi, cảng cạn (ICD) và dịch vụ hậu cần còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Cơ chế liên kết vùng, liên ngành chưa hiệu quả khiến chuỗi logistics chưa gắn kết với các trung tâm hàng hóa lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa. Vận tải thủy - vốn là thế mạnh - chưa được khai thác hết do bồi lấp luồng lạch, trong khi đường bộ vẫn phải gánh tỷ trọng lớn. Nguồn vốn đầu tư hạn hẹp trong khi logistics đòi hỏi vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài. Chính sách ưu đãi đầu tư hạ tầng logistics chậm hoàn thiện, chưa đủ sức hút với nhà đầu tư chiến lược. Phần lớn doanh nghiệp logistics trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay có quy mô nhỏ, chưa đầu tư hạ tầng số, phần mềm quản trị hay hệ thống giám sát vận tải hiện đại, thiếu năng lực cạnh tranh và hội nhập chuỗi cung ứng toàn cầu. Đội ngũ nhân lực trong ngành logistics chưa chuyên sâu; thiếu nền tảng dữ liệu số phục vụ quản lý và dự báo; nhân lực chất lượng cao còn ít. Công tác quản lý nhà nước còn phân tán, chưa có cơ quan điều phối chuyên trách. Ứng dụng công nghệ trong quản lý chuỗi cung ứng yếu, liên kết giữa chính quyền, doanh nghiệp, nhà đầu tư chưa chặt chẽ. Cơ chế huy động nguồn lực xã hội hóa và chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ, chưa hình thành hệ sinh thái hợp tác công - tư đầu tư hạ tầng logistics.

Ảnh: Cầu vượt sông Đáy, tỉnh Ninh Bình (Nguồn: Báo Quân đội nhân dân)

Tạo đột phá phát triển logistics Ninh Bình trong giai đoạn mới

Để khắc phục những điểm nghẽn, khai thác tối đa thế mạnh, tỉnh Ninh Bình xác định logistics phải trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn, đặt trong tầm nhìn tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực. Muốn làm được điều đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, nâng cao tầm nhìn chiến lược, hoàn thiện quy hoạch và thể chế. Tỉnh cần xây dựng và ban hành “Chương trình phát triển logistics tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2025 - 2035”, xác định logistics là hạ tầng chiến lược thúc đẩy công nghiệp, thương mại, du lịch. Thành lập cơ quan điều phối do lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh phụ trách, bảo đảm chỉ đạo thống nhất, liên ngành, kết hợp đầu tư công trọng tâm, huy động tư nhân, nâng cao nhân lực, chuyển đổi số. Tích hợp quy hoạch logistics vào quy hoạch tỉnh, liên kết với quy hoạch giao thông, công nghiệp, thương mại, đô thị nhằm tạo không gian phát triển đồng bộ.

Hai là, phát triển hạ tầng logistics đồng bộ và kết nối vùng. Ưu tiên xây dựng các nút kết nối vận tải đa phương thức, đặc biệt là cảng cạn ICD Ninh Bình, Yên Khánh, hệ thống kho bãi thông minh và trung tâm logistics vùng gắn với cao tốc, đường ven biển, cảng Ninh Phúc. Đẩy mạnh hợp tác công - tư trong lĩnh vực logistics, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn logistics quốc tế tham gia; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các địa phương hoàn thiện hạ tầng liên vùng, tạo hành lang vận tải hàng hóa thông suốt từ Ninh Bình đi khắp cả nước và quốc tế.

Ba là, đổi mới mô hình quản lý nhà nước và cải cách hành chính. Thực hiện đơn giản hóa những vẫn đảm bảo đúng quy định trong cấp phép, thông quan và quản lý logistics, rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí hành chính. Chuẩn hóa quy trình số hóa dữ liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ dự báo và quản trị. Đưa tiêu chí hiệu quả logistics (thời gian thông quan, kết nối vùng, chi phí vận tải) vào hệ thống đánh giá năng lực quản lý của các sở, ngành, địa phương.

Bốn là, phát triển doanh nghiệp và hệ sinh thái logistics thông minh trên địa bàn tỉnh. Khuyến khích hình thành doanh nghiệp logistics đầu tàu có quy mô, công nghệ và năng lực điều phối chuỗi cung ứng. Hỗ trợ chuyển đổi số thông qua chương trình hỗ trợ phần mềm quản trị vận tải (TMS), quản lý kho (WMS), truy xuất hàng hóa. Xây dựng mô hình liên kết vùng logistics Bắc Bộ, trong đó Ninh Bình là điểm trung chuyển kết nối hàng hóa từ vùng đồng bằng ra biển và ngược lại.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển logistics trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp đào tạo nhân lực logistics theo hướng thực hành, ứng dụng và hội nhập quốc tế. Thành lập Trung tâm đào tạo logistics Ninh Bình, làm đầu mối bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp, nhân lực kỹ thuật. Thu hút chuyên gia trong, ngoài nước tham gia tư vấn chiến lược, chuyển giao công nghệ quản trị chuỗi cung ứng và vận tải hiện đại.

Sáu là, phát triển logistics xanh, hướng tới kinh tế tuần hoàn. Khuyến khích đầu tư, phát triển hệ thống hạ tầng logistics dùng năng lượng tái tạo, phương tiện vận tải sạch, hệ thống làm lạnh tiết kiệm năng lượng. Xây dựng tiêu chuẩn “Logistics xanh Ninh Bình” gắn với mục tiêu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải khí nhà kính.

Bảy là, tăng cường giám sát, đánh giá và truyền thông. Thiết lập Bộ chỉ số phát triển logistics Ninh Bình, công bố định kỳ, tạo công cụ giám sát minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương. Tổ chức Diễn đàn logistics Ninh Bình hằng năm để kết nối nhà đầu tư, doanh nghiệp, chuyên gia, cơ quan quản lý. Đẩy mạnh truyền thông chiến lược, quảng bá hình ảnh Ninh Bình là “điểm đến logistics mới” của Bắc Bộ.

Tóm lại, phát triển logistics đối với Ninh Bình không chỉ là chủ trương về phát triển kinh tế mà còn là bước chuyển về tư duy phát triển, từ địa phương dựa vào công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào chuỗi giá trị và quản trị kết nối. Để hiện thực hóa mục tiêu đó cần có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo đồng bộ, quản trị linh hoạt, điều phối hiệu quả, lấy doanh nghiệp và hiệu quả chuỗi cung ứng làm trung tâm của các ấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Ninh Bình. Chỉ với tầm nhìn dài hạn, đầu tư đồng bộ, chính sách thông thoáng và các giải pháp chiến lược thực thi nhất quán, Ninh Bình mới có thể trở thành “trung tâm logistics liên vùng” của miền Bắc  nói riêng, cả nước nói chung trong thời gian tới./.