Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọngđã thể hiện rõ quan điểm về các vấn đề xã hội cần được giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là “khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp”[1]. Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc[2].
Tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, các vấn đề xã hội được nhận diện: “An sinh xã hội, an ninh con người, phúc lợi xã hội chưa được bảo đảm vững chắc. Chính sách dân số và phát triển chưa theo kịp yêu cầu thực tế. Sự phân hoá giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng. Hạ tầng giao thông, điện, nước ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Dịch vụ y tế còn nhiều hạn chế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng”[3].
1. Thực trạng quản lý phát triển xã hội đối với các vấn đề xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long
Thời gian qua, cả hệ thống chính trị vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã nỗ lực tích cực giải quyết các vấn đề xã hội thông qua nhiều chương trình, hành động gắn với điều kiện đặc thù của Vùng. Vì thế, công tác quản lý phát triển xã hội đối với các vấn đề xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có những kết quả như sau:
Về lĩnh vực dân số: Chất lượng dân số được nâng lên, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi biết chữ của toàn vùng đã tăng lên, đặc biệt là tỷ lệ được đào tạo từ đại học trở lên. Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động được đào tạo cũng tăng từ 11,7% của năm 2015 lên 16,4% của năm 2024[4]. Nhờ đó, năng suất lao động của vùng tăng lên cách đáng kể, từ 85,9 triệu đồng/người/năm của năm 2018 lên 135,3 triệu đồng/người/năm của năm 2024[5]. Đồng bằng sông Cửu Long đang trong giai đoạn dân số vàng, tức là đang có dư lợi dân số. Tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi của toàn vùng dự báo chiếm 70,4% năm 2024[6], là một trong những vùng kinh tế - xã hội có tỷ trọng cao nhất cả nước, chỉ đứng sau Đông Nam bộ. Tuy nhiên, chất lượng dân số của vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp so với các vùng kinh tế - xã hội khác; già hóa dân số có xu hướng diễn ra nhanh và tình hình di cư vẫn còn phức tạp[7].
Về kiểm soát phân tầng xã hội: Thời gian qua, Đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều chính sách góp phần kiểm soát phân tầng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư, thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng ở Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng tăng gấp 10 lần trong gần 2 thập niên qua (2002 -2024). Số liệu này là một minh chứng khẳng định thu nhập của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long thay đổi theo hướng tăng lên. Phân hóa giàu - nghèo của Vùng cơ bản đã có sự kiểm soát, có xu hướng giảm từ 7,4 lần năm 2010 xuống còn 6,4 lần năm 2024[8]. Mặc dù vậy, sự chênh lệch này của vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn cao hơn Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng. Thu nhập của vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp hơn so với một số vùng kinh tế - xã hội.
Về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản: Theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, 5 dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Kết quả cho thấy, trong thời gian qua, người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã cơ bản tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi biết chữ của toàn vùng đã tăng lên, đặc biệt là tỷ lệ được đào tạo từ đại học trở lên. Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động được đào tạo cũng tăng từ 11,7% của năm 2015 lên 16,4% của năm 2024[9]. Nhờ đó, năng suất lao động của vùng tăng từ 85,9 triệu đồng/người năm 2018 lên 135,3 triệu đồng/người năm 2024[10]. Mặc dù vậy, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động qua đào tạo của vùng thấp hơn so với các vung kinh tế - xã hội khác của cả nước. Tỷ lệ sử dụng nước sạch toàn Vùng đạt quy chuẩn quốc gia là khoảng 57%, tuy nhiên vào thời điểm mùa khô, nhiều công trình cấp nước tập trung cũng gặp khó khăn trong việc cung cấp nước sạch cho người dân[11].

Ảnh: Chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ (Nguồn: https://tapchikinhtetaichinh.vn)
2. Kiến nghị hàm ý chính sách
Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý phát triển xã hội đối với các vấn đề xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long, một số kiến nghị hàm ý chính sách được đề xuất như sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy vai trò của chủ thể quản lý trong hoạch định và thực thi chính sách đối với giải quyết các vấn đề xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương, các địa phương trong vùng để thực hiện có hiệu quả chính sách giải quyết các vấn đề xã hội. Tăng cường chế đảm bảo quyền và lợi ích của người dân tham gia giám sát việc thực thi chính sách.
Thứ hai, chủ thể quản lý địa phương cần đề xuất hệ thống các giải pháp để phát huy lợi thế dân số vàng và thích ứng giá hóa dân số ở Đồng bằng sông Cửu LongĐBSCL. Đẩy mạnh công tác đào tạo và giải quyết việc làm cho lao động gắn với nhu cầu thị trường, đáp ứng với yêu cầu chuyển đổi số. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; đảm bảo hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi; phát triển hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi; giải quyết nhu cầu việc làm của người cao tuổi…
Thứ ba, tăng cường kiểm soát phân tầng xã hội và thu hẹp khoảng cách xã hội giữa đối tượng. Chủ thể quản lý cần xây dựng các chiến lược sinh kế phù hợp đặc điểm đồng bào Khmer và biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khuyến khích làm giàu chính đáng gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội. Đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là các nhóm yếu thế./.
[1] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2022, tr.35
[2] Nguyễn Phú Trọng: Sđd, trang 19-20
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng
[4] Tổng Cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2024, 2024a, tr.187
[5] Tổng Cục Thống kê: Sđd, 2024a, tr.190
[6] Tổng Cục Thống: Kết quả biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2024. Nxb Thống kê, Hà Nội, 2024b, tr.121.
[7] Phan Thuận: Vấn đề xuất cư ở Đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp tỉnh Cà Mau), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2024.
[8] Tổng Cục Thống kê: Sđd, 2024a, tr.1017.
[9] Tổng Cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2024, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2024a, tr.184
[10] Tổng Cục Thống kê: Sđd, 2024, tr.190
[11] Lê Quỳnh Dung (2025), “Nước sạch vì một nông thôn xanh, bền vững tại Đồng bằng sông Cửu Long”, https://vkist.gov.vn/vi/ctype-service_news/nuoc-sach-vi-mot-nong-thon-xanh--ben-vung-tai-dong-bang-song-cuu-long-201.htm, truy cập ngày 21/11/2025
