Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hoa Kỳ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tiểu biểu của hoạt động này là Chiến dịch Sấm Rền và Chiến dịch Rồng Biển. Nhưng cuối cùng các chiến dịch kể trên đã phải chấm dứt trong thất bại mà mãi đến bây giờ phía Mỹ vẫn tìm cách biện hộ cho những thất bại đó
Từ năm 1959, đồng thời với việc mở tuyến đường Trường Sơn trên bộ, chi viện cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng chủ trương mở thêm tuyến đường trên biển. Đầu năm 1961, con đường chi viện cách mạng miền Nam trên biển chính thức được mở với chuyến tàu chơ vũ khí đầu tiên cho cách mạng miền Nam cập bến Cà Mau. Đến năm 1965, con đường này đã đưa vào miền Nam hàng nghìn tấn vũ khí, trong đó có nhiều loại vũ khí hiện đại, góp phần để quân và dân miền Nam làm nên những thắng lợi quan trọng, nhất là thắng lợi của chiến dịch Bình Giã cuối năm 1964- đầu năm 1965, góp phần đẩy chế độ miền Nam đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Trước tình hình đó, Mỹ trực tiếp đưa quân xâm lược Việt Nam, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Giữa năm 1965, xảy ra sự kiện Vũng Rô ở Phú Yên, Hoa Kỳ tình cờ phát hiện con đường biển vận chuyển vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam. Từ đó trở đi, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tăng cường các hoạt động tìm kiếm, ngăn chặn tuyến vận tải đường biển chi viện tiền tuyến lớn miền Nam.
Chiến dịch Rồng Biển được khởi động nhằm đối phó với những nhu cầu tăng cường lực lượng và tài chính cho miền Bắc Việt Nam từ các nước xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh chiến tranh phá hoại ngày càng leo thang. Hải quân Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc tấn công nhằm vào các tàu vận tải và các căn cứ quân sự của đối phương, từ xà lan tự hành đến các thuyền buồm cỡ nhỏ. Washington hy vọng rằng việc cắt đứt đường vận chuyển sẽ gây khó khăn cho các lực lượng Việt Bắc trong việc cung cấp lương thực, trang thiết bị và lực lượng cho quân đội miền Nam.

Một tàu sân bay Mỹ hoạt động trên biển Đông, năm 1966 (Ảnh tư liệu)
Chiến dịch Rồng Biển (Sea Dragon) là một loạt các chiến dịch hải quân của Mỹ diễn ra từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 10 năm 1968. Mục tiêu của chiến dịch này là cắt đứt tuyến vận tải và liên lạc từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào miền Nam Việt Nam, đồng thời đánh phá các mục tiêu ven bờ biển miền Bắc bằng hỏa lực từ các tàu chiến.
Chiến dịch được mở màn ngày 25/10/1966, khi các tàu khu trục như USS Mansfield và USS Hanson bắt đầu bắn phá bờ biển tỉnh Quảng Trị, để ngăn chặn và phá hủy các tàu tiếp tế trên mặt nước đang cố gắng vận chuyển hàng tiếp tế và nhân sự từ Bắc Việt Nam đến các khu vực phía Nam Khu phi quân sự Việt Nam (DMZ) ở Nam Việt Nam.
Dần dần, Hải quân Mỹ đã tăng cường một lực lượng lớn cho nhiệm vụ này cùng với Lực lượng đặc nhiệm 77 (biệt kích) của Việt Nam Cộng hòa tiến hành. Lúc cao điểm, Hạm đội 7 của Mỹ đã điều động 2 tuần dương hạm hạng nặng và 12 khu trục hạm hoạt động dọc bờ biển miền Bắc Việt Nam, liên tục bắn phá nhằm vào không chỉ tàu bè mà còn vào các mục tiêu quân sự như trạm radar và bến thủy.
Ngoài ra, đồng minh của Mỹ cũng tham gia chiến dịch này. Các tàu khu trục HMAS Perth, HMAS Hobart, HMAS Brisbane và HMAS Vendetta của Hải quân Hoàng gia Úc đều phục vụ trong lực lượng Sea Dragon. Phạm vi xa nhất chiến dịch Rồng Biển tiến hành lên tới 370 km kể từ giới tuyến quân sự.
Chiến dịch Rồng Biển phần nào đã gián đoạn hoạt động cung cấp và liên lạc của quân đội miền Bắc, nhưng không thể đạt được mục tiêu hoàn toàn tiêu diệt việc vận chuyển. Cuộc chiến tranh trên biển chỉ làm tăng thêm sự quyết tâm kháng chiến của quân đội miền Bắc, đồng thời dẫn đến nhiều tổn thất cho hải quân Mỹ.

Nữ pháo binh Ngư Thủy, Quảng Bình (đơn vị anh hùng) bắn cháy tàu chiến địch, ngày 07/02/1968 (Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Trải qua gần 2 năm hoạt động, chiến dịch chỉ phát huy hiệu quả một phần nhỏ trong chiến lược lớn của Mỹ ở Việt Nam. Chiến dịch Rồng Biển, mặc dù mang lại một số thành công bước đầu trong việc ngăn chặn hoạt động của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhưng cuối cùng lại không thể thay đổi cục diện chiến tranh. Các lực lượng phía Bắc Việt Nam tiếp tục phát triển sức mạnh quân sự của mình và cuối cùng đã giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh kéo dài này.
Quân đội miền Bắc Việt Nam đã tích cực ứng chiến, sử dụng hỏa lực pháo bờ để đối phó với tàu chiến Mỹ. Tính đến khi chiến dịch kết thúc vào tháng 10/1968, Hoa Kỳ thừa nhận có 29 tàu chiến bị hư hại và 31 thủy thủ thiệt mạng, bị thương do hỏa lực của miền Bắc. Tháng 3/1967, một tàu khu trục của Hoa Kỳ được báo cáo là đã bị trúng đạn pháo của đối phương vào bệ pháo phía trước. Sáu thủy thủ bị thương và bệ pháo bị hỏng.
Vào tháng 4 năm 1968, khu vực hoạt động của chiến dịch đã giảm xuống dưới vĩ tuyến 19 độ Bắc, chỉ cách DMZ 150 dặm (240 km) về phía Bắc. Chiến dịch kết thúc vào ngày 31/10/1968, khi Tổng thống Lyndon B. Johnson ra lệnh dừng mọi cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam và các tàu chiến của Hạm đội 7 rút về phía Nam giới tuyến quân sự.
Hạm đội 7 Hoa Kỳ tính toán rằng, trong năm đầu hoạt động, chiến dịch Sea Dragon đã đánh chìm hoặc làm hư hại một số lượng lớn mục tiêu của miền Bắc Việt Nam với 1.378 tàu tiếp tế đã được phát hiện và 664 tàu được báo cáo đã bị bắn trúng. Toàn bộ chiến dịch kéo dài hai năm và đã bắn 13.976 quả đạn, đánh chìm 483 mục tiêu (chủ yếu là tàu xuồng cỡ nhỏ) và hơn 1.000 mục tiêu khác bị hư hại.
Các tàu Sea Dragon đã tấn công ít nhất 90 vị trí đặt pháo binh ở phía Bắc trong năm 1968. Hàng trăm mục tiêu khác như cầu, xe tải, phà, bến tàu, đường bộ, các công trình quân sự và nơi tập trung quân đội đã bị bắn phá bởi các quả đạn cỡ lớn lên tới 230 mm của lực lượng này.
Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hoa Kỳ đã cố gắng phát huy thế mạnh vượt trội của mình là các loại vũ khí hiện đại bậc nhất trên không và trên biển, đánh phá hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhằm làm nhụt ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Nhưng cuối cùng, cả chiến dịch Sấm Rền cũng như chiến dịch Rồng Biển cùng chấm dứt với việc Jhonson phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động chiến tranh chống phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày 01/11/1968. Như vậy, cả chiến dịch Sấm Rền và chiến dịch Rồng Biển đều không đạt được mục tiêu. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa vẫn đứng vững trong bom đạn và đặc biệt, con đường chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam không lúc nào ngưng nghỉ, góp phần làm nên chiến thắng ngày 30/4/1975 lịch sử.
