"Thống nhất lúc nào? Sao tôi không biết?", ông Vũ Khoan, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao, hỏi lại. Các đồng nghiệp ASEAN trả lời họ đã đạt thỏa thuận ở sân golf vào buổi sáng.
Khi ông cự nự rằng "ở sân golf sáng nay có Việt Nam đâu?", các quan chức ASEAN đáp nửa đùa nửa thật: "Đó không phải lỗi của chúng tôi, mà là lỗi của anh không chịu đi đánh golf".
Đây là một phần câu chuyện về đoạn trường gia nhập và tham gia sinh hoạt trong ASEAN của Việt Nam, được cố Phó Thủ tướng Vũ Khoan kể lại trong cuốn sách Chuyện nghề, chuyện nghiệp ngoại giao. Rút ra bài học rằng ngoại giao không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán, ông đã quyết tâm học đánh golf để xóa đi khoảng cách ấy, với một mục tiêu duy nhất: đưa Việt Nam xích lại gần hơn với khu vực.
"Tôi tập chơi golf xuất phát từ yêu cầu chính trị chứ không phải ham mê thời thượng gì cả", ông viết.
Cố Phó thủ tướng Vũ Khoan. Ảnh: VGP
Câu chuyện này phản ánh phần nào những khó khăn và nỗ lực bền bỉ của ngành ngoại giao Việt Nam trong hành trình đưa đất nước hội nhập. Vào thập niên 1980, sau cuộc trường kỳ kháng chiến để thống nhất đất nước, Việt Nam phải đương đầu một cuộc chiến khác: chống bao vây, cấm vận và cô lập ngoại giao.
"Việt Nam lúc đó đang bị Mỹ và phương Tây bao vây, cấm vận trên tất cả khía cạnh chính trị, kinh tế, thương mại, ngoại giao. Có thể nói rằng Việt Nam lúc đó không có con đường nào để quan hệ được với bên ngoài", Đại sứ Đỗ Ngọc Sơn, nguyên Vụ trưởng Vụ ASEAN, nói với VnExpress.
Khi gọng kìm cấm vận siết chặt Việt Nam ở bên ngoài, tình hình trong nước cũng nghiêm trọng không kém. Sau chiến tranh, đất nước đối mặt khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát phi mã, đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn.
Trong khi đó, thế giới đang có những chuyển biến mạnh mẽ, xu thế đối đầu dần được thay thế bằng ưu tiên hợp tác, hội nhập và toàn cầu hóa. Việt Nam đứng trước lựa chọn then chốt: Tiếp tục chịu cảnh hiện tại, hay tìm cách đập tan gọng kìm để mở ra cánh cửa hội nhập.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã trở thành ánh sáng mở đường cho đất nước, khi xác định Việt Nam sẽ "mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Trong bối cảnh đó, phá thế bao vây, cấm vận được xác định là chìa khóa mở ra môi trường hòa bình, ổn định để Việt Nam phát triển kinh tế, theo ông Sơn.
Và một quyết sách cực kỳ quan trọng được đưa ra: lấy việc gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) làm "đột phá khẩu" để phá thế bao vây, cấm vận.
"Tại sao là ASEAN? Tôi nghĩ điều này rất dễ hiểu. Đây là khu vực gần gũi về địa lý, có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa, nên có thể dễ dàng tìm kiếm tiếng nói chung. Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trong khối. Muốn ra ngõ, chúng ta trước tiên phải thiết lập quan hệ với láng giềng", ông Sơn giải thích.
ASEAN được thành lập ngày 8/8/1967 tại Bangkok, với 5 quốc gia thành viên ban đầu là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Đến năm 1984, khối này kết nạp thêm Brunei và trong giai đoạn này thường xuyên đứng về phía đối lập với Việt Nam.
Nhưng ASEAN cũng được coi là cánh cửa cần mở để Việt Nam bước ra thế giới. Bình thường hóa quan hệ và gia nhập Hiệp hội sẽ giúp Việt Nam giải quyết cả vấn đề về an ninh lẫn chính danh chính trị, ông Sơn cho hay.
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng từng đưa ra nhận định về vai trò của ASEAN, khẳng định "hơn bất cứ một quốc gia riêng rẽ nào, ASEAN có thể là một cầu nối nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới... ASEAN sẽ là một trong những đối tác chủ yếu của Việt Nam, với tư cách là một nhóm nước".
Các nước ASEAN khi đó có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam, đồng nghĩa Việt Nam có thể tranh thủ kinh nghiệm, nguồn vốn và thị trường của họ.
"Với nền kinh tế khủng hoảng hậu chiến tranh và quá trình đổi mới cần vốn, thị trường và công nghệ, gia nhập ASEAN chính là con đường ngắn nhất để có các lợi ích đó", ông Sơn cho hay.
Cùng với tiến trình hội nhập ASEAN, Việt Nam cũng sẽ triệt tiêu những cái cớ mà các bên sử dụng để cô lập đất nước, mở ra con đường hợp tác với khu vực và thế giới.
"Việt Nam lúc đó cần gia nhập ASEAN để chơi ván bài lớn... Đó là quyết định mang tính sống còn với lợi ích của Việt Nam", Đại sứ Vũ Quang Minh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, đánh giá.
Thăm dò - gỡ nút thắt
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là người phát đi tín hiệu đầu tiên với ASEAN trong những cuộc tiếp xúc giai đoạn 1986-1987. Tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á - Thái Bình Dương ở TP HCM tháng 10/1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực.
ASEAN dần tiếp nhận những tín hiệu này, bởi kết nạp Việt Nam cũng là nhu cầu của Hiệp hội. Ngay từ khi thành lập, mục tiêu của ASEAN là xây dựng một cộng đồng chung với đầy đủ 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Đại sứ Sơn cho biết ASEAN lúc đó kỳ vọng Việt Nam khi trở thành thành viên sẽ đóng vai trò dẫn dắt nhóm quốc gia còn lại gồm Lào, Campuchia và Myanmar gia nhập, để cùng hợp tác phát triển với 6 thành viên ban đầu.
Đại sứ Vũ Quang Minh thì nhận định việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991 đã trở thành một động lực thúc đẩy ASEAN, vì Việt Nam khi đó được coi là một cửa ngõ quan trọng để tiến vào thị trường rộng lớn của Trung Quốc.
Một động lực quan trọng nữa là việc Mỹ tuyên bố dỡ bỏ cấm vận thương mại, sau đó bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào ngày 11/7/1995. "Điều đó chứng tỏ rằng mọi sự chống đối, áp đặt lên Việt Nam không còn nữa. Rõ ràng, Việt Nam đã được các nước lớn công nhận, và đường lối Đổi mới của chúng ta đã có hiệu quả, giúp nâng cao vị thế đất nước", Đại sứ Sơn nói.
Đây được coi là yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" để Việt Nam mở "đột phá khẩu" vào ASEAN, trở thành thành viên của khối. Nhưng Việt Nam cũng hiểu rằng nút thắt lớn nhất cho quá trình bình thường hóa quan hệ và gia nhập ASEAN là vấn đề Campuchia.
Sau khi chế độ Pol Pot bị đánh đổ, Việt Nam đã cử nhiều đoàn cán bộ, chuyên gia sang Campuchia hỗ trợ xây dựng chính quyền cơ sở và phục hồi kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nỗ lực này đã gây ra những hiểu lầm, căng thẳng giữa các nước thành viên ASEAN lúc đó với Việt Nam.
Để tháo gỡ nút thắt này, Việt Nam từ năm 1988 đã chủ động tham gia vào các cơ chế đối thoại không chính thức như Hội nghị Không chính thức Jakarta (JIM) do Indonesia khởi xướng, đóng vai trò như diễn đàn để Việt Nam và các nước ASEAN đối thoại về những bất đồng liên quan đến vấn đề Campuchia.
Tới năm 1989, Việt Nam rút hết quân tình nguyện ở Campuchia theo thỏa thuận giữa hai nước, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả, trong sáng, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế, sau đó tham gia hội nghị Paris bàn về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia.
Sau nhiều nỗ lực đàm phán ngoại giao, Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết vào tháng 10/1991, giúp chấm dứt vấn đề gây căng thẳng suốt nhiều năm giữa Việt Nam và ASEAN, giúp cánh cửa gia nhập Hiệp hội trở nên rộng mở hơn.
Trả lời phỏng vấn tạp chí Far Eastern Economic Review (FEER) có trụ sở ở Hong Kong năm 1991, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nói rõ Việt Nam có thể tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC).
TAC, ký lần đầu ở Indonesia năm 1976, là hiệp ước nhằm thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài trong khu vực dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tham gia hiệp ước được xem là tiền đề cho quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Đại sứ Sơn cho rằng việc Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đưa ra phát biểu này trên một tạp chí tiếng Anh, thay vì kênh ngoại giao truyền thống, là thông điệp rất đáng chú ý. "Đây chính là bước đi thăm dò của Việt Nam để xem phản ứng của ASEAN", ông nói.
Đại sứ Đỗ Ngọc Sơn, nguyên Vụ trưởng Vụ ASEAN, trả lời phỏng vấn VnExpress. Ảnh: Anh Phú
Nhưng một bàn tay không thể vỗ thành tiếng và vũ điệu tango không thể chỉ có một người, Đại sứ Minh ví von một cách hóm hỉnh. Tiến trình gia nhập ASEAN của Việt Nam không thể thành công nếu chỉ có nỗ lực và thiện chí từ một phía.
Trong quá trình đó, ASEAN đã thể hiện rõ vai trò đồng hành, hướng dẫn, giúp định hình môi trường chính trị thuận lợi để Việt Nam hội nhập khu vực.
Sau bước thăm dò của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Hội nghị Quan chức Cấp cao ASEAN (SOM) diễn ra tại Bangkok đã nhất trí kết nạp Việt Nam. Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan sau đó phải gặp các SOM để bàn thủ tục tiến hành.
"Mở đầu tôi trịnh trọng nói 'Your Excellencies...' (Thưa các ngài), liền bị các bạn ASEAN nhắc: ở đây không có chuyện các ngài, chỉ có 'bạn' (friends) hay 'đồng nghiệp' (colleagues) thôi", ông Vũ Khoan kể lại về những bỡ ngỡ ban đầu.
Khi các quan chức ASEAN yêu cầu Việt Nam ký Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trước khi gia nhập, ông Vũ Khoan đã ngớ người ra và hỏi "CEPT là gì?".
Câu hỏi của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam làm cho các quan chức ASEAN ngơ ngác. "Vào ASEAN mà anh không biết CEPT là gì thật sao", họ hỏi lại, rồi yêu cầu ông làm việc với trưởng SOM Thái Lan, lúc đó là Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế, để bàn thêm.
Hai bên sau đó đi đến thỏa hiệp rằng Việt Nam sẽ ký CEPT sau khi gia nhập ASEAN và ông Vũ Khoan đã phải "dẫn đầu một đoàn đại diện nhiều ngành đi vòng quanh các nước ASEAN để tìm hiểu, học hỏi thêm".
Các nước thành viên ASEAN trong quá trình này đã thể hiện sự ủng hộ với Việt Nam theo vị thế và năng lực của họ. Nổi bật trong đó là Indonesia, quốc gia được xem như "anh cả" của ASEAN, đóng vai trò trung gian hòa giải và dẫn dắt đối thoại khu vực, khởi xướng hội nghị JIM1, JIM2 như một cơ chế đối thoại để giải quyết vấn đề Campuchia giữa Việt Nam và ASEAN.
Thái Lan cũng mời Việt Nam tham dự nhiều hội thảo, diễn đàn kinh tế như một đối tác tiềm năng, giúp xây dựng niềm tin và đặt nền móng cho Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực. Singapore thì hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp nhiều khóa đào tạo cho cán bộ Việt Nam và tư vấn về cải cách phù hợp với tiêu chuẩn của ASEAN.
Ba nước Malaysia, Philippines và Brunei cũng bày tỏ thiện chí chào đón Việt Nam gia nhập ngôi nhà chung ASEAN, giúp tạo ra sự đồng thuận tuyệt đối trong Hiệp hội, điều kiện bắt buộc để kết nạp thành viên mới.
Đến tháng 7/1992, các nước ASEAN chủ động mời Việt Nam tham dự Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại Manila, Philippines và ký TAC, bắt đầu hưởng quy chế quan sát viên của khối.
Theo quy định, thời gian làm quan sát viên ASEAN thường kéo dài 5 năm, nhưng tới năm 1994, Hiệp hội đã "đánh tiếng" về việc kết nạp Việt Nam.
"Lúc đó họ hỏi rằng Việt Nam đã thấy đủ điều kiện gia nhập ASEAN chưa. Đó là gợi ý đầy tích cực và tế nhị. Các quan chức ASEAN không muốn tạo ấn tượng Hiệp hội mời Việt Nam gia nhập, mà là chúng ta tự nguyện. Nhưng câu nói đó cũng ngầm báo hiệu rằng 'chúng tôi đã sẵn sàng để kết nạp các bạn rồi'", ông Sơn nói.
Vài tháng sau khi Mỹ tuyên bố dỡ bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam, ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nộp đơn chính thức xin gia nhập ASEAN. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 27 ở Bangkok năm đó, các nước đã nhất trí kết nạp Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội vào năm 1995.
Ván cược cân não vào phút chót
Khi mọi công tác chuẩn bị cho lễ kết nạp Việt Nam gần như hoàn tất, một sự cố phút chót bất ngờ xuất hiện, đe dọa phá vỡ toàn bộ kế hoạch lịch sử, buộc đoàn ngoại giao Việt Nam phải "chơi một ván cược cân não" với chính các đối tác của mình.
Trong cuộc họp Ủy ban Thường trực ASEAN (ASC) tại Brunei ngày 24-25/7/1995, khi rà soát các văn kiện để trình lên Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM 28), phái đoàn Việt Nam phát hiện có thêm dự thảo tuyên bố về vấn đề thuyền nhân, điều không được đưa ra thảo luận trước đó.
Điều này khiến mọi người bất ngờ, bởi ngay trong quá trình chuẩn bị gia nhập, Việt Nam đã có các cuộc thảo luận song phương với từng nước ASEAN có người Việt di tản để giải quyết ổn thỏa vấn đề thuyền nhân.
"Sau khi biết thông tin này, tôi một mặt báo cáo với lãnh đạo ở Việt Nam, một mặt cho anh em đi thăm dò tại sao có dự thảo đó. Tôi cũng vội xin gặp Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Brunei, người chuẩn bị cho hội nghị lần này, để hỏi về vấn đề vừa phát sinh", ông Sơn, Vụ trưởng Vụ ASEAN khi đó, kể lại.
Sau khi tìm hiểu thông tin, đoàn Việt Nam biết dự thảo thuyền nhân do phía Malaysia đưa ra. Malaysia cũng là nước đã ra dự thảo tuyên bố về tình hình chiến tranh Bosnia và Hercegovina diễn ra năm 1992-1995. Kuala Lumpur đã gửi 1.500 quân sang hỗ trợ người Hồi giáo ở Bosnia, nên "họ muốn ASEAN có tuyên bố ủng hộ vấn đề Bosnia, lên án chính phủ Nam Tư lúc bấy giờ", ông Sơn kể.
Tuy nhiên, Việt Nam ngay từ đầu nêu rõ lập trường không lên án, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, thay vào đó chỉ kêu gọi các bên đối thoại giải quyết xung đột. Lập trường này khiến Malaysia lo ngại Việt Nam bác bỏ dự thảo về tình hình Nam Tư, do đó dự thảo thuyền nhân được đưa ra dường như nhằm tăng sức ép với phái đoàn Việt Nam.
Yêu cầu cấp bách lúc đó của phái đoàn Việt Nam tại Brunei là thuyết phục Malaysia rút dự thảo về thuyền nhân, nếu không việc kết nạp vào ASEAN có nguy cơ đổ vỡ.
Trong bối cảnh thời điểm đến lễ kết nạp chỉ còn tính bằng ngày, ông Sơn cho hay Việt Nam đã quyết định tung ra "đòn tâm lý", đó là đề xuất ASEAN lùi thời điểm kết nạp Việt Nam, chờ đến khi giải quyết xong vấn đề Malaysia bỏ dự thảo thuyền nhân.
"Chúng tôi lúc đó hiểu rằng ASEAN sẽ rất sợ kế hoạch kết nạp đã công bố bị trì hoãn mà không có lý do chính đáng. Họ cũng e ngại phản ứng của dư luận Việt Nam", ông giải thích.
Trong khi cứng rắn bác bỏ dự thảo về thuyền nhân, Việt Nam cũng thể hiện thiện chí bằng cách đồng ý ra tuyên bố về Nam Tư nhưng với điều kiện không lên án cụ thể các bên liên quan. Cuối cùng, Malaysia đồng ý rút dự thảo về thuyền nhân, trong khi Việt Nam chấp thuận tuyên bố về tình hình Nam Tư với những điều chỉnh ngôn từ phù hợp quan điểm.
"Đây là một kỷ niệm đáng nhớ về hợp tác ASEAN. Ở Việt Nam có câu 'đầu xuôi, đuôi lọt', nhưng trong trường hợp này thì 'đầu đã xuôi, nhưng đuôi... hơi kẹt một tí'", ông Sơn mô tả, thêm rằng nó cho thấy đặc thù phức tạp của ngoại giao đa phương, nơi luôn tiềm ẩn những tình huống bất ngờ, đòi hỏi phản ứng và cách xử lý linh hoạt, nhạy bén của các nhà ngoại giao.
Cuối cùng ngày trọng đại đã tới. Chiều 28/7/1995, lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN diễn ra trong không khí trang trọng tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei. Tổng thư ký ASEAN Ajit Singh, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cùng đông đảo quan chức các nước thành viên đều có mặt tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế để tham dự buổi lễ.
Vụ trưởng ASEAN Đỗ Ngọc Sơn được giao nhiệm vụ trao lá cờ Việt Nam cho Tổng thư ký ASEAN, để đội danh dự Brunei kéo cờ. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời ASEAN, đánh dấu khoảnh khắc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức.
Mỗi lần nhớ lại giây phút đặc biệt ấy, ông Sơn vẫn không giấu nổi niềm xúc động. "Trong tiếng nhạc quốc ca hùng tráng lúc đó, tôi cảm thấy rất tự hào và thầm nghĩ rằng 'Việt Nam làm được rồi'", ông kể.
"Thế là chấm dứt cảnh thù nghịch với các nước láng giềng! Dân tộc ta phải đổ biết bao xương máu mới có ngày này", ông Vũ Khoan kể lại cảm xúc vào khoảnh khắc đó.
Đại sứ Đỗ Ngọc Sơn kể về ngày Việt Nam gia nhập ASEAN. Video: Anh Phú
Thích ứng và khẳng định vị thế
Hội nhập ASEAN không chỉ đơn giản là bước qua cánh cửa của một tổ chức, mà phía sau đó còn là cả quá trình "nhập gia tùy tục", thích ứng với văn hóa, nguyên tắc và phong cách làm việc của ASEAN. Đó là giai đoạn vừa học hỏi, vừa khẳng định bản lĩnh, để Việt Nam nhanh chóng hòa nhập vào "sân chơi chung" của khu vực, từ đó vươn lên và khẳng định vị thế của mình.
Trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam trong những năm tháng đó đã phải học, làm quen với phong cách làm việc mới, những cam kết và giá trị mới, cũng như những cách thức giao lưu chưa từng biết.
"Chúng tôi thường nói vui rằng có thêm ba tiêu chí để gia nhập ASEAN là biết tiếng Anh, chơi golf và hát karaoke", Đại sứ Sơn chia sẻ.
Không chỉ ông Vũ Khoan, nhiều lãnh đạo và quan chức ngoại giao Việt Nam khi đó đã phải học đánh golf, môn thể thao thịnh hành trên thế giới và trong ASEAN lúc ấy. Ngoài đánh golf để rèn luyện sức khỏe, các nhà ngoại giao, chính khách cũng như doanh nhân ASEAN đều coi đó như phương thức quan trọng để tiếp xúc, tiếp cận đối tác một cách không chính thức nhằm giải quyết những vấn đề còn khúc mắc trong các buổi làm việc chính thức.
"Khi ngồi xe điện hoặc lúc đánh golf với nhau, họ có thể trao đổi những vấn đề mà trên bàn đàm phán, hoặc kể cả trong bữa tiệc, cũng không thể nói được", ông Sơn giải thích. "Mình phải biết chơi golf để lúc có vấn đề nhạy cảm, tế nhị, không nói được trên bàn đàm phán, bàn tiệc hay cuộc họp, thì có thể kéo nhau đi chơi golf".
Trong cuốn sách Chuyện "đi sứ" thời hội nhập, Đại sứ Nguyễn Duy Hưng kể rằng vào năm 1996 hoặc 1997, khi các đoàn trao đổi về Dự thảo Thông cáo chung Hội nghị ASEAN ở Kuala Lumpur do nước chủ nhà Malaysia đưa ra, một số điểm chưa được nhất trí và cần báo cáo lên các bộ trưởng để xin chỉ thị.
Tuy nhiên, các bộ trưởng chiều hôm đó đều tham gia một giải golf, sau đó là tiệc chiêu đãi buổi tối, nên không còn thời gian để xem xét các vấn đề phát sinh của dự thảo Thông cáo chung, văn kiện dự kiến được thông qua vào sáng hôm sau.
Khoảng 18h, các bộ trưởng trở về khách sạn, cười nói rôm rả về trận golf buổi chiều. Đại sứ Hưng và cán bộ trong đoàn Việt Nam lo lắng, không biết các bộ trưởng có quên mất chuyện Thông cáo chung hay không, bởi trong đó có một vài vấn đề còn khúc mắc có liên quan tới Việt Nam.
"Các anh trong đoàn ra đón anh Cầm, thấy Bộ trưởng cười rất tươi nên tranh thủ hỏi ngay chuyện Thông cáo chung xem kết quả thế nào để còn kịp chuẩn bị phương án khác cho phù hợp. Bộ trưởng Cầm cũng nói ngay 'xong hết rồi'. Hóa ra các bộ trưởng đã trao đổi trên sân golf và thống nhất tất cả", ông Hưng kể.
Theo đó, phía Malaysia sẽ sửa lại dự thảo và các bộ trưởng sẽ thông qua ngay trong buổi tiệc chiêu đãi buổi tối. "Mọi người thở phào như trút được gánh nặng", ông Hưng cho hay.
Ngoài chơi golf, các quan chức ASEAN cũng duy trì một hình thức thư giãn khác sau các cuộc họp căng thẳng kéo dài, đó là tổ chức hát karaoke.
"Sau mỗi hội nghị bộ trưởng ngoại giao, tất cả bộ trưởng ngoại giao ASEAN cùng ngoại trưởng của 10 nước đối thoại cùng lên sân khấu, biểu diễn hát karaoke và nhảy", Đại sứ Sơn cho biết. "Điều đó làm tăng thêm tính gắn kết, hòa đồng, có thể giúp trao đổi một số vấn đề không chính thức ở cấp chuyên viên".
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu tại Hội nghị thường niên Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 ngày 29/7/1995, một ngày sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của khối. Ảnh: TTXVN
Trong 30 năm kể từ khi gia nhập, các nhà ngoại giao đã đặt từng viên gạch như thế để xây dựng vị thế cho Việt Nam trong ASEAN. Từ tâm thế dè dặt, e ngại ban đầu, Việt Nam từng bước trở thành thành viên tích cực, chủ động và đóng góp hiệu quả cho ASEAN.
Murray Hiebert, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), Mỹ, ví von quá trình Việt Nam tìm cách mở cánh cửa vào ASEAN 30 năm trước giống như "thầy bói xem voi".
"Việt Nam bước vào căn phòng, không biết 'con voi' ASEAN này như thế nào. Họ cần thời gian để 'khởi động' và làm quen, nhưng rồi nhanh chóng trở thành một thành viên then chốt của Hiệp hội", ông Hiebert nói với VnExpress.
Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim cũng nhận định ba thập kỷ qua là "chặng đường ấn tượng" của Việt Nam trong ASEAN, nhấn mạnh thành viên thứ 7 của khối hiện là "trụ cột không thể thiếu".
Chính trong gia đình ASEAN, Việt Nam đã thực sự tìm thấy niềm tin và sự gắn bó bền chặt, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đánh giá. Việt Nam tự hào tham gia và đóng góp vào những dấu mốc quan trọng của ASEAN, từ hiện thực hóa ASEAN-10, ký kết Hiến chương ASEAN, thành lập Cộng đồng ASEAN và gần đây nhất thông qua văn kiện "ASEAN 2045: Tương lai chung của chúng ta".
Vị thế mà Việt Nam có được hôm nay ở ASEAN có một phần không nhỏ từ những nỗ lực thầm lặng của các nhà ngoại giao. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay bên cạnh cờ ASEAN và các nước không chỉ là hình ảnh mang tính biểu tượng, mà còn là cả một câu chuyện lịch sử đầy tự hào về sự vươn mình của dân tộc.
"Tham gia ASEAN không chỉ chấm dứt thời kỳ bị bao vây, cô lập, mà nó chính thức đặt dấu mốc lịch sử cho sự mở đầu thời đại hội nhập quốc tế đầy tích cực và chủ động của Việt Nam", Đại sứ Nguyễn Trung Thành, nguyên Trưởng SOM ASEAN Việt Nam giai đoạn 2004-2007, khẳng định.