“Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp vào ngày 29/11/2022. Sự kiện này khẳng định giá trị độc đáo của nghề gốm Chăm không chỉ trong phạm vi Đông Nam Á mà còn trong không gian văn hóa toàn cầu. Hiện nay, nghề gốm Chăm vẫn được duy trì tại hai làng chính: Ligok (xã Trì Đức, tỉnh Bình Thuận) và Hamu Crok – tức làng Bàu Trúc (thị xã Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận), trong đó Bàu Trúc là trung tâm lớn nhất.

Gốm Bàu Trúc là dòng gốm thủ công nổi tiếng của người Chăm, là một trong những làng gốm cổ xưa nhất Đông Nam Á. Ảnh: Internet
Làng gốm Chăm Bàu Trúc
Di sản văn hóa Việt Nam không chỉ là kết tinh sáng tạo của cộng đồng các dân tộc mà còn là bộ phận hữu cơ của kho tàng văn hóa nhân loại. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, cộng đồng là chủ thể của việc sáng tạo, lưu truyền và phát triển các loại hình di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm các nghề thủ công truyền thống như nghề gốm. Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm ở làng Bàu Trúc (Ninh Thuận) được ghi nhận trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (2017) và năm 2022 được UNESCO đưa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Theo truyền thuyết người dân địa phương kể lại, nghề làm gốm được khởi nguồn từ vị tiền hiền Poklong Chanh và phu nhân là Nai Lank Mưh – những người được xem là tổ nghề đã truyền dạy kỹ thuật chế tác gốm cho phụ nữ Chăm từ thuở xa xưa. Quy trình chế tác gốm tại Bàu Trúc vẫn duy trì các phương pháp truyền thống đặc trưng. Nguyên liệu chính là đất sét được khai thác từ cánh đồng Bàu Trúc, sau đó được đập nhỏ, ngâm ủ trong các hố chứa qua đêm với lượng nước điều tiết thủ công. Đặc biệt, điểm độc đáo trong kỹ thuật làm gốm của người Chăm ở đây là hoàn toàn không sử dụng bàn xoay – công cụ phổ biến trong các làng gốm khác – mà thay vào đó, người thợ, chủ yếu là phụ nữ, trực tiếp đi quanh sản phẩm để tạo dáng bằng tay. Phương thức này góp phần tạo nên sắc thái “thủ công độc bản” cũng như màu sắc đặc trưng tươi son của các sản phẩm sau khi nung.
Hiện nay, toàn bộ khu vực làng gốm Bàu Trúc có tổng cộng 1.286 hộ dân với khoảng 5.871 nhân khẩu, trong đó phần lớn các hộ vẫn duy trì hoạt động sản xuất gốm truyền thống, gắn bó qua nhiều thế hệ theo hình thức “mẹ truyền con nối”. Các nghệ nhân Bàu Trúc hiện có khả năng sản xuất đa dạng chủng loại sản phẩm, từ các mặt hàng mỹ nghệ có tính biểu tượng cao như tượng nữ thần Apsara, mô hình tháp Chăm, phù điêu trang trí, đến các vật dụng dân sinh thiết yếu như nồi đất, lu nước, ấm đất, lò than, khuôn bánh căn – bánh xèo… đáp ứng thị hiếu của cả khách du lịch và người tiêu dùng trong nước. Nhờ những giá trị độc đáo về kỹ thuật và thẩm mỹ, làng gốm Bàu Trúc đã trở thành điểm đến văn hóa – du lịch hấp dẫn, thu hút lượng lớn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, trải nghiệm và tìm mua các sản phẩm thủ công đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa Chăm.

Mỗi sản phẩm gốm của Bàu Trúc là độc bản. Ảnh: bvhttdl.gov.vn
Bảo tồn làng gốm Chăm – một số hướng tiếp cận
Hướng tiếp cận lấy cộng đồng làm trung tâm nhấn mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt là đồng bào Chăm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghệ thuật làm gốm. Đồng thời, địa phương chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất tại làng gốm Bàu Trúc gắn với phát triển du lịch cộng đồng để phát huy giá trị di sản này.
Đặc trưng của nghề gốm Bàu Trúc là nặn tay và lò nung lộ thiên. Hiện nay, nếu các lò gốm áp dụng quy trình sản xuất có xu hướng hiện đại hóa, chuyển từ thủ công sang sản xuất cơ giới (dùng bàn xoay, lò nung công nghiệp) sẽ làm mất đi những yếu tố thủ công truyền thống, vốn là biểu tượng của văn hóa mẫu hệ Chăm. Giải pháp để vẫn giữ yếu tố gốc, không làm mất bản sắc mà vẫn bảo đảm đơn hàng bằng cách người dân/cộng đồng có thể thay thế máy móc, phân công lao động, chuyên môn hóa một số công đoạn trong quy trình làm gốm như công đoạn khai thác và xử lý nguyên liệu, ủ và nhào trộn nguyên liệu. Còn các công đoạn khác thì cần được bảo tồn, nhất là nặn gốm bằng tay, tạo hình, trang trí và nung ngoài trời.
Để duy trì và làm mới “tính địa phương” trong từng sản phẩm, cần sự kết hợp giữa tri thức bản địa với tư duy thiết kế hiện đại. Vai trò của nghệ nhân, nhà thiết kế, họa sĩ, các trường đào tạo nghề là rất quan trọng trong việc phát triển sản phẩm mới. Đặc biệt, cần kết nối giáo dục nghề nghiệp với lịch sử - văn hóa địa phương nhằm nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về giá trị di sản và khơi dậy tinh thần tự hào văn hóa.
Phân khúc sản phẩm như dòng thủ công truyền thống phục vụ khách hàng cao cấp, và dòng sản phẩm phổ thông sản xuất theo đơn hàng lớn, nhưng vẫn bảo đảm bản sắc gốc. Yếu tố then chốt là tính độc đáo, mang bản sắc Chămpa - yếu tố quyết định khả năng tồn tại và cạnh tranh bền vững của sản phẩm.
Hướng tiếp cận từ thể chế và chính sách trong xu thế toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0 chú trọng tới sự phát triển của các nghề truyền thống không tách rời định hướng chính sách, vai trò hỗ trợ của chính quyền và sự liên kết giữa các ngành văn hóa – công thương – du lịch. Việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo tồn hiệu quả.
Cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm gốm truyền thống, tạo điều kiện tham gia hội chợ – triển lãm trong và ngoài nước, xây dựng các điểm du lịch làng nghề gắn với trải nghiệm văn hóa bản địa. Quan trọng hơn cả, phải xác định gốm Bàu Trúc không chỉ là sản phẩm kinh tế mà là một tài nguyên văn hóa bản địa có giá trị chiến lược trong phát triển bền vững.

Nét độc đáo của nghề làm gốm nơi đây là phương pháp thủ công chứa đựng tính nghệ thuật cao. Ảnh: bvhttdl.gov.vn
Bên cạnh yếu tố văn hóa, đầu tư công nghệ và tri thức là động lực nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Kết hợp tính bản địa với công nghệ hiện đại là xu hướng tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước.
Khuyến khích sử dụng sản phẩm gốm Chăm trong đời sống địa phương – từ công sở, trường học, đến không gian dịch vụ, du lịch – là bước đi thiết thực nhằm thúc đẩy thị trường nội địa. Sản phẩm truyền thống cũng có thể trở thành quà tặng văn hóa, biểu trưng bản sắc tỉnh nhà.
Nghệ thuật gốm Chăm Bàu Trúc, với lịch sử và chiều sâu văn hóa độc đáo, hoàn toàn có thể được nâng tầm nếu có chính sách đầu tư bài bản, kết hợp bảo tồn và phát triển; nếu được nhận diện đúng thì hoàn toàn có thể trở thành sản phẩm cạnh tranh toàn cầu. Bản sắc chính là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của di sản văn hóa trong bối cảnh mới
Như vậy, làng gốm Bàu Trúc không chỉ là một địa chỉ văn hóa độc đáo của Ninh Thuận mà còn là một thiết chế xã hội, kinh tế và tâm linh của cộng đồng người Chăm. Giải pháp bảo tồn làng nghề không thể đơn thuần dừng lại ở việc “bảo tồn kỹ thuật truyền thống”, mà phải đặt trong mục tiêu phát triển kinh tế bền vững gắn với bản sắc văn hóa. Điều đó đòi hỏi sự chung tay của cộng đồng, của các nghệ nhân, các nhà khoa học, doanh nghiệp, cũng như sự vào cuộc tích cực và chủ động của các cấp chính quyền. Khi sản phẩm của làng gốm Chăm không những là hàng hóa mà còn là sứ giả văn hóa mang thông điệp bản sắc đến với thế giới, thì việc bảo tồn làng nghề chính là trách nhiệm, là chiến lược phát triển. Từ nghiên cứu làng gốm Bàu Trúc, có thể đưa đến thông điệp: chỉ khi nào “tính địa phương/tính truyền thống” được nuôi dưỡng bởi “tư duy hiện đại”, khi đó di sản mới thực sự sống được trong đời sống đương đại, lan tỏa được giá trị và đóng góp vào sự phát triển bền vững của cộng đồng, địa phương và quốc gia.
Mục lục tài liệu tham khảo
- https://nhandan.vn/vi-the-moi-cua-gom-cham-bau-truc-post728044.html. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2025
- https://special.nhandan.vn/gomchamvithemoivacohoi/index.html. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2025
