Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phục vụ nhân dân, yêu dân, thương dân, 95 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đều lấy “Dân” làm gốc. Trong các văn kiện của các nhiệm kỳ Đại hội, nhất là trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Đảng khẳng định “Dân là gốc”, là chủ thể, là trung tâm

1. Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều vì dân, yêu dân, thương dân, hết lòng phụng sự nhân dân. Người cho rằng trong mọi công việc, Đảng, Nhà nước đã xác định “dân làm gốc” thì “đừng có làm điều gì trái ý dân”, “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”[1]. Cách đây 80 năm, ngay sau khi tuyên bố nền độc lập của Việt Nam với toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại buổi lễ tốt nghiệp khóa 5 Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam (ngày 15/11/1945) đã căn dặn cán bộ:

“...Anh em phải làm sao cho dân mến. Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”[2].

Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hằng ngày của Đảng, đó là: “Sự lãnh đạo, trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng[3]. Quan hệ Đảng với dân là quan hệ máu thịt - dân tìm thấy ở Đảng vai trò người dẫn đường trong đấu tranh cách mạng.

Đảng phải “Sao cho vừa lòng dân”, mà một trong những bí quyết là phải “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[4].

Người còn nói: “Muốn phụng sự nhân dân phải gần dân, học dân, nghe theo dân, lãnh đạo là dìu dắt người ta, xa quần chúng thì không lãnh đạo được. Nhưng gần quần chúng không phải là đến nằm ở nhà người ăn, chè chén. Gần gũi học hỏi nghe ngóng, lãnh đạo mấy điều đó phải đi với nhau, không rời nhau được”[5].

Đồng thời, trong lãnh đạo, cần phải “đi đúng đường lối quần chúng”, “làm theo cách quần chúng”, điều này được Hồ Chí Minh chỉ dẫn là: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”[6]. Muốn vậy, phải tạo điều kiện cho nhân dân “dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”[7].

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam (Ảnh tư liệu)

Đồng thời, lại phải tỉnh táo, cảnh giác phòng ngừa căn bệnh quan liêu, xa dân, mất dân chủ dưới mọi hình thức. Không thể phát huy dân chủ nếu ở đó, như Hồ Chí Minh từng cảnh báo, còn có những lệch lạc “Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”[8].

Hồ Chí Minh lưu ý: “Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là làm cho dân chúng. Việc gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”[9]. Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn, là con Lạc cháu Hồng, mọi người dân Việt Nam yêu nước, với nguồn lực, sức mạnh, trí tuệ vô cùng tận. Dựa vào dân, học hỏi dân chúng nhưng người cách mạng cũng phải biết phương cách học hỏi. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”[10].

2. Khởi đầu đổi mới đất nước, Đại hội VI (1986), Đảng đã đúc kết bài học kinh nghiệm hàng đầu là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[11].

Như vậy chính thức từ Đại hội VI, tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng.

Đến Đại hội VII (1991), bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” được khẳng định trong bài học kinh nghiệm thứ hai của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Cương lĩnh khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”[12].

Năm 1996, tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới (1986-1996), Đại hội VIII đúc kết tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong bài học kinh nghiệm thứ tư, khẳng định “cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”[13].

Sau 20 năm đổi mới, năm 2006, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”[14].

Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[15].

vov to chuc hoi nghi lay y kien gop y du thao van kien Dai hoi xiv cua Dang hinh anh 1

VOV tổ chức Hội nghị góp ý kiến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Đại hội XIII (2021) của Đảng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”[16].

Lần đầu tiên trong văn kiện, Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới. Tại Đại hội XIII của Đảng, quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” được thể hiện nhất quán, xuyến suốt và bao trùm trong các văn kiện và trên các lĩnh vực.

Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định: “Quán triệt sâu sắc quan điểm “Dân là gốc”, Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo và mục tiêu phấn đấu”[17]. Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, Đảng chủ trương phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;...

Như vậy, với 13 nhiệm kỳ đại hội, bước vào nhiệm kỳ Đại hội XIV, bài học “lấy dân làm gốc” luôn được Đảng khẳng định và lãnh đạo thực hiện. Do đó, Đảng đã phát huy vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân; nhân dân là nền tảng, chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị, là lực lượng rộng lớn trong mọi phong trào cách mạng.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr 63.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr 116.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.330

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.326.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.370.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.334.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.293.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.333.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.333.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 337.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr 710.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 5.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1996, tr 73.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 19.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia -Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 69.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr27-28.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025,tr 38.