Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 1954, khi công tác phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ được đẩy lên cao nhất, khó khăn về nhân lực, vật lực, phương tiện vận chuyển trở nên vô cùng lớn. Trước tình hình ấy, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ đạo toàn Liên khu phát huy cao độ tinh thần “toàn dân kháng chiến”, động viên nhân dân khắc phục mọi trở ngại, tăng cường sản xuất và đóng góp cho mặt trận. Để duy trì khí thế thi đua sôi nổi giữa hậu phương và tiền tuyến, Liên khu ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền địa phương “thường xuyên báo cáo tin chiến thắng cho nhân dân hậu phương đi đôi với việc đem thành tích của hậu phương báo cáo cho anh em bộ đội ngoài tiền tuyến”[1].

Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân Liên khu Việt Bắc đã phát huy vai trò hậu phương chiến lược, dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến. Theo số liệu tổng hợp, toàn Liên khu đã cung cấp 4.680 tấn lương thực và huy động 130.554 lượt dân công phục vụ chiến dịch[2], với tổng cộng 35.000 dân công[3] thường trực tham gia vận chuyển, mở đường, tải đạn, tải thương và bảo đảm hậu cần cho bộ đội ở mặt trận. Riêng các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lạng Sơn trong đợt 2 và đợt 3 của chiến dịch đã tiếp tục gửi ra mặt trận 34.000 kg thịt lợn[4] cùng nhiều vật phẩm khác. Tính chung sáu tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang và Bắc Ninh, nhân dân đã huy động và chuyển giao cho mặt trận 4.680 tấn gạo, 118 tấn thịt, 113 tấn vừng, đậu, lạc cùng nhiều loại lương thực, thực phẩm khác[5], góp phần quan trọng bảo đảm sức chiến đấu của bộ đội trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chính từ hậu phương kiên cường ấy, sức người, sức của được dồn lên tuyến lửa, tạo nên nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.

Đồng bào các dân tộc vận chuyển lương thực phục vụ chiến dịch Biên giới 1950 (Ảnh tư liệu) 

 Bảo vệ an toàn cơ quan Trung ương, căn cứ địa kháng chiến

Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một trong những nhiệm vụ trọng yếu và then chốt của quân và dân Liên khu Việt Bắc là bảo vệ an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, bao gồm Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng Tư lệnh. Với tầm nhìn chiến lược sáng suốt, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã phân công đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc để củng cố căn cứ địa. Cuối năm 1946, Trung ương Đảng đã cử một số đoàn công tác trở lại Việt Bắc để chuẩn bị xây dựng An toàn khu (ATK). Sau quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tế, các huyện: Võ Nhai, Đại Từ, Định Hoá, Phú Lương (Thái Nguyên). Chợ Đồn (Bắc Kạn), Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Trong đó, trung tâm là 4 huyện: Sơn Dương, Chợ Đồn, Định Hóa, Yên Sơn được chọn làm nơi xây dựng ATK của Trung ương.

Để bảo vệ vững chắc ATK, Trung ương chỉ thị cho các địa phương như Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang đẩy mạnh xây dựng, củng cố lực lượng Công an địa phương và phát huy lực lượng quần chúng nhân dân làm nhiệm vụ bảo vệ “vòng ngoài” ATK. Thực hiện chủ trương của Trung ương, Công an các tỉnh đẩy mạnh xây dựng cơ sở quần chúng vững chắc, làm nòng cốt bảo vệ ATK, đồng thời, thực hiện phát giác, triệt phá mọi âm mưu tình báo, gián điệp và phá hoại của kẻ địch. Lực lượng trật tự xã tuyển chọn trong nhân dân gồm cả đồng bào dân tộc thiểu số, có trình độ văn hóa, nhanh nhẹn, tuyệt đối giữ bí mật… Thực hiện phối hợp với các lực lượng bảo vệ ATK, một số địa phương xây dựng được các cơ sở thông tin liên lạc trong quần chúng dưới hình thức “liên gia, liên bảo”. Nhiều “liên gia, liên bảo” hoạt động tích cực và hiệu quả như “Ngũ gia liên bảo” ở Ghềnh Quýt (Tuyên Quang)-án ngữ bến đò vào ATK-đã đóng góp không nhỏ vào công tác quản lý và phát hiện các đối tượng nghi vấn qua lại vùng ATK…

Một trong những minh chứng tiêu biểu cho thất bại của thực dân Pháp là chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Đây là một chiến dịch quy mô lớn của Pháp, với mục tiêu tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo và làm suy yếu lực lượng kháng chiến. Tuy nhiên, nhờ vào chiến thuật du kích tài tình, sự linh hoạt trong phòng thủ và tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân Liên khu Việt Bắc, các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến vẫn an toàn, và chiến dịch này của Pháp đã phải thất bại.

Giai đoạn từ 1949 đến 1954, khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, các trận đánh bảo vệ căn cứ địa càng diễn ra khốc liệt hơn. Các chiến sĩ du kích, quân đội, và nhân dân địa phương không chỉ chiến đấu với quân thù, mà còn phải đối mặt với mọi thử thách gian nan, từ việc đối phó với các cuộc càn quét của địch đến việc duy trì bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não. Những hình thức bảo vệ vô cùng sáng tạo và đa dạng đã được triển khai, từ việc canh gác nghiêm ngặt, tổ chức dẫn đường an toàn cho các cán bộ lãnh đạo, đến việc nuôi giấu bộ đội và cán bộ trong những địa điểm kín đáo: “Nhân dân hết lòng bảo vệ cơ quan Trung ương, sẵn sàng hy sinh, gian khổ. Đồng bào đào hầm bí mật, nuôi giấu bộ đội nhiều tháng liền”[6]. Đó là những hình ảnh sống động của lòng dũng cảm, kiên cường và sự đóng góp của quân và dân Việt Bắc trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng.

Đồng bào H’Mông đi dân công góp sức cho chiến dịch giải phóng Điện Biên (Ảnh tư liệu)

 Đóng góp trên mặt trận quân sự

Liên khu Việt Bắc không chỉ là nơi tập trung xây dựng lực lượng vũ trang chủ lực của cả nước, mà còn là nơi huấn luyện và trưởng thành của nhiều đơn vị quân đội lớn, đóng vai trò quyết định trong các chiến dịch lớn. Các đơn vị dân quân, du kích ở địa phương được phát triển mạnh mẽ, trở thành lực lượng rộng khắp, vừa bảo vệ làng bản, vừa phối hợp với bộ đội chủ lực trong các chiến dịch quân sự.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, tính riêng huyện Chợ Đồn, mặc dù dân số không đông, nhưng toàn huyện đã có 675 thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ, 91 người tham gia lực lượng thanh niên xung phong, và hơn 14.000 lượt dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử[7].

Không chỉ riêng Chợ Đồn, trong cuộc kháng chiến trường kỳ ấy, huyện Bạch Thông cũng có những cống hiến to lớn. Toàn huyện đã có 117 người con ưu tú anh dũng hy sinh, 69 đồng chí khác mang trên mình thương tích chiến tranh[8]. Những hy sinh ấy đã góp phần tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của quân và dân các dân tộc tỉnh Bắc Kạn trong sự nghiệp giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Chiến dịch tiến công 1951 cũng là một ví dụ điển hình về sự đóng góp của quân và dân Liên khu Việt Bắc. Trong năm 1951, ta mở liên tiếp các chiến dịch lớn như Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, và Hòa Bình. Các chiến dịch này không thể duy trì được nhịp độ và quy mô như vậy nếu không có sự chi viện liên tục và dồn dập từ nhân dân Việt Bắc, cả về sức người và sức của:”Không có sự chi viện dồn dập, liên tục của nhân dân Việt Bắc, thì các chiến dịch lớn năm 1951 khó có thể duy trì được nhịp độ và quy mô như vậy” [9]. Những đóng góp này đã đảm bảo rằng các chiến dịch không chỉ giành chiến thắng mà còn tạo ra thế trận vững chắc cho các chiến dịch tiếp theo.

Đặc biệt, Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Pháp và là nơi ghi dấu đóng góp đặc biệt to lớn của quân và dân Việt Bắc. Các đơn vị chủ lực xuất phát từ căn cứ địa Việt Bắc, mang theo sức mạnh của một hậu phương lớn. Dân công hỏa tuyến từ các tỉnh Việt Bắc đã chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số dân công toàn quốc: “Riêng tỉnh Thái Nguyên đã huy động 23.000 lượt dân công, Bắc Kạn hơn 12.000, Tuyên Quang 11.000, vận chuyển hàng vạn tấn lương thực, hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ”[10]. Hình ảnh “dân công Việt Bắc kéo pháo, gùi gạo” đã trở thành biểu tượng bất diệt của sự gắn bó giữa hậu phương và tiền tuyến. Chính sự đóng góp ấy đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, một chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đánh dấu sự kết thúc của ách thống trị thực dân tại Đông Dương.

Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Liên khu Việt Bắc đã thực sự trở thành căn cứ địa Trung ương của cả nước, là nơi hội tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Quân và dân Liên khu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan Trung ương. Từ đây, nhiều đơn vị chủ lực được thành lập, huấn luyện và trưởng thành qua các chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Biên giới 1950. Lực lượng dân quân, du kích phát triển rộng khắp, gắn bó mật thiết với nhân dân, vừa chiến đấu, vừa bảo vệ làng bản, góp phần hiện thực hóa phương châm “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”.

Cũng chính từ căn cứ địa Việt Bắc, sức mạnh tổng hợp của quân và dân cả nước đã hội tụ, để rồi làm nên đỉnh cao chói lọi của lịch sử dân tộc: Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những đóng góp của quân và dân nơi đây được thể hiện trên nhiều phương diện, từ quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục cho đến công tác dân vận, tất cả đã tạo dựng nên một hậu phương vững chắc, góp phần quyết định vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến..

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 - 1956, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, t. 8, tr. 312.

[2] Bộ Tư lệnh Quân khu I: Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, t. 3, tr. 92.

[3] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, t. 1, tr. 353.

[4] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, t. 1, tr. 354.

[5] Bộ Tư lệnh Quân khu I: Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, t. 3, tr. 189.

[6] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông số 29, Mục lục số 16, Hồ sơ số 344, tờ 28.

[7] Bạch Thông anh hùng, Báo Bắc Kạn, số đặc biệt (14/12/2000), tr.25.

[8] Bạch Thông anh hùng, Báo Bắc Kạn, số đặc biệt (14/12/2000), tr.25.

[9] Vũ Thái Dũng (2018), Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc (1949-1954), Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.127.

[10] Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông số 31, Mục lục số 18, Hồ sơ số 401, tờ 56.