Tác phẩm đã góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ qua các thời kỳ

Đảng đã vận dụng vào công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chúng ta thấy rằng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, về bối cảnh mà nói, Đảng lãnh đạo hai nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, cụ thể là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam. Đồng thời miền Bắc cũng trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại (1965-1968 và tháng 4 - tháng 12/1972) và cuộc đấu tranh chống gián điệp, biệt kích trong suốt những năm 1961-1975. Trong bối cảnh đó, những đức tính cần, kiệm, liêm, chính mà chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ năm 1949 vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Không những thế, nó còn được yêu cầu cao hơn trong bối cảnh miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những đức tính, cần, kiệm, liêm, chính lại càng trở nên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh miền Bắc nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu mô tả về thời kỳ này cũng như nói lên thực tế như thế:

“Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết

Ta nắm tay nhau xây lại đời ta

Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà

Chuồng lợn, bầy gà, đàn trâu, ao cá

Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá

Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô

Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!”[1].

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bác sĩ Trần Duy Hưng tham gia lao động tại Công viên Thống Nhất (Ảnh tư liệu)

Chính vì thế Đảng ta càng coi trọng tầm quan trọng của những đức tính đó đối với cán bộ, đảng viên. Trong thời kỷ này, Đảng ta đã đề ra nhiều nghị quyết, chỉ thị thông tri về vấn đề đạo đức. Toàn xã hội phát động phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm. Đảng phát động cuộc vận động xây dựng tổ chức Đảng 4 tốt, xây dựng đảng viên 4 tốt. Trong xử lý kỷ luật đảng, đến năm 1975, hàng nghìn cán bộ đảng viên vi phạm về cần, kiệm, liêm, chính đã bị kỷ luật, trong đó nhiều người bị đưa ra khỏi Đảng. Cuộc vận động chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước cũng là cuộc đấu tranh không kém phần khó khăn, gian khổ với những tiêu cực của xã hội miền Bắc thời kỳ đó.

Đảng coi trọng trở lại xây dựng Đảng về đạo đức trong những năm gần đây

Ngay từ năm 1960, tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh,

Là thống nhất, là độc lập, là hòa bình ấm no.

Công ơn Đảng thật là to,

Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”[2].

Như vậy, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức luôn là vấn đề xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, trong một thời gian, chúng ta đã sao nhãng vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, một phần do chiến tranh, hậu quả chiến tranh, một phần do khó khăn về kinh tế xã hội, vì phải tập trung xây dựng đường lối chính trị trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.

Từ năm 1986 đến nay. Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới và đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, những thành tựu của công cuộc đổi mới có lẽ đã to lớn hơn nhiều nếu vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được đặt sớm đặt ra ngay từ đầu thời kỳ đổi mới. Phải thừa nhận rằng, trong một thời gian dài, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức đã trở nên nơi lỏng. Chính vì thế, những vi phạm về đạo đức nói chung, về những đức tính cần, kiệm, liêm, chính nói riêng, diễn ra trong một thời gian dài, để lại những hậu quả khôn lường.

Lối sống giản dị của Bác Hồ là tấm gương cho mỗi cán bộ, đảng viên (Ảnh tư liệu)

Trong những nhiệm kỳ gần đây, trong bối cảnh đất nước đổi mới thu được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, bên cạnh đó, Đảng cũng thừa nhận một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, điều đó làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế thành quả của sự nghiệp đổi mới. Chính vì thế, Đảng ta đặt lại vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Xây dựng Đảng về đạo đức trở thành một nội dung đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bên cạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, phương thức lãnh đạo…

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, lần thứ XII và lần thứ XIII của Đảng đều nhấn mạnh hơn vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Đặc biệt, trong các nghị quyết xây dựng, chỉnh đốn Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Kết luận tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Trong đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu lên những biểu hiện cụ thể của suy thoái về đạo đức lối sống, có tác dụng cảnh báo tới đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân[3].

Nếu chúng ta để ý thì công cuộc “đốt lò” của Đảng do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng, nhiều cán bộ các cấp từ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đến cán bộ chủ chốt các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương bị xem xét kỷ luật. Về mặt Đảng, kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương thường bắt đầu bằng câu “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ....”, nhưng về mặt pháp luật mà nói, tất cả những cán bộ bị kỷ luật đó đều vi phạm những phẩm chất đạo đức của người cán bộ là cần, kiệm, liêm, chính.

Rõ ràng là trong 76 năm qua, giá trị những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” đã thể hiện sinh động trong thực tiễn. Mỗi cán bộ Đảng viên luôn phải thấm nhuần đạo đức cách mạng nói chung và những đức tính cần, kiệm, liêm, chính nói riêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ 76 năm qua. Do đó, giá trị lý luận của tác phẩm không chỉ giới hạn trong 76 năm qua, mà nó chắc chắn còn vượt qua thời gian, có ý nghĩa lâu dài với quá trình xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế trong những năm tới.

 

[1] Thơ Tố Hữu, bài Bài ca mùa Xuân 1961.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 404.

[3] 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống

1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.