Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngoài những nội dung giá trị đối với dân tộc Việt Nam, còn hàm chứa những giá trị qquốc tế và nhân loại sâu sắc.
Từ khi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 chưa diễn ra, vào khoảng giữa tháng 5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhờ trung uý Giôn (John), báo vụ của cơ quan OSS, điện về Côn Minh, Trung Quốc đề nghị thả dù cho Người một bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ[1]. Điều này minh chứng Hồ Chí Minh đã có chủ ý và sự chuẩn bị từ khá sớm cho việc ra đời của Tuyên ngôn Độc lập, cũng là phản ánh khát vọng cháy bỏng, mong mỏi khôn nguôi ngày đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.
Bà Lady Borton, nhà nghiên cứu người Mỹ về Hồ Chí Minh, có nhiều năm hoạt động, sinh sống ở Việt Nam chỉ ra trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) viết rằng: “We hold these Truths to be self-evident, that all Men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty, and the pursuit of Happiness”. Có nghĩa là: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người (all Men) sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Một lưu ý là từ “all Men” trong bản Tuyên ngôn năm 1776 được hiểu là những người đàn ông da trắng. Điều thú vị là khi trích dẫn vào Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và Hồ Chí Minh khẳng định: Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. “Suy rộng ra, câu nói ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đồng thời, Hồ Chí Minh tiếp tục trích dẫn tinh thần tinh tuý nhất từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Trích dẫn trên cho thấy tầm nhìn, trí tuệ Hồ Chí Minh, tạo nên giá trị quốc tế, tinh thần thời đại sâu sắc của Tuyên ngôn Độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập (Ảnh tư liệu)
Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền bình đẳng của mọi quốc gia, dân tộc
Cách Hồ Chí Minh sử dụng, trích dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên đã tạo nên cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam một bản sắc riêng, một tầm nhìn, giá trị vượt không gian, thời gian. Giá trị quốc tế sâu sắc của Tuyên ngôn nằm ở chỗ chỉ từ quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc của mọi người đàn ông da trắng trên nước Mỹ, Hồ Chí Minh đã nâng lên, khẳng định đanh thép quyền của một quốc gia, dân tộc. Đó là tầm vóc, trí tuệ của một vĩ nhân. Với Hồ Chí Minh, đó không chỉ là mong muốn, sự trăn trở khôn nguôi về độc lập, tự do, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam từ khi Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911), mà còn là ước mong cho mọi dân tộc trên thế giới. Bởi hành trình 30 năm tìm đường cứu nước cho Người thấy và hiểu ở khắp các châu lục từ Á sang Âu từ Phi sang Mỹ…, đâu đâu cũng có những con người, những dân tộc là thuộc địa, phụ thuộc, không có độc lập, tự do, bình đẳng và bác ái.
Ngoài ra, trích dẫn trên còn mang hàm ý rằng chính cha ông của những người Mỹ, người Pháp đang xâm chiến, thống trị và lăm le xâm chiếm Việt Nam đã từng đấu tranh cho sự bình đẳng, tự do, bác ái và thừa nhận điều đó, thì không lý gì con cháu họ hôm nay lại đi ngược lại, chống lại điều mà cha ông họ đã thừa nhận. Đồng thời, như một thông điệp hoà bình mà qua đó, Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập muốn truyền tải, khẳng định thái độ, truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu hoà bình của Việt Nam. Một thái độ chan hoà, cởi mở, khắp năm châu con người đều là bằng hữu anh em, không phân biệt thể chế chính trị xã hội, màu da, hay từng là kẻ thù của nhau…, Việt Nam luôn rộng mở tiếp thu, học hỏi những tiến bộ của nhân loại, bè bạn, luôn sẵn lòng cùng nhau hợp tác vì hoà bình và phát triển bình đẳng trên tinh thần bác ái, nhân văn. Thực tiễn lịch sử 80 năm qua đã minh chứng cho tinh thần, ước muốn đó của Hồ Chí Minh, của Tuyên ngôn Độc lập và của đất nước, con người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (Ảnh Báo Nhân Dân 02/9/2025)
Tuyên ngôn Độc lập hàm chứa tính nhân văn, nhân quyền sâu sắc, khẳng định quyền bình đẳng bất khả xâm phạm của con người
Thật thú vị khi Hồ Chí Minh dùng từ “all men” trong nguyên bản Tuyên ngôn của nước Mỹ với nghĩa “tất cả mọi người” trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Thế là chỉ từ quyền của người đàn ông da trắng của nước Mỹ, Hồ Chí Minh đã nâng lên, khẳng định quyền của “tất cả mọi người”, tức là “con người” nói chung, không phân biệt nam, nữ, màu da, tôn giáo hay đảng phái, xuất thân… đã là con người thì phải được bình đẳng như nhau. Với ý nghĩa đó, Tuyên ngôn độc lập không chỉ là văn kiện khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà còn là tiếng nói đanh thép về nhân quyền, về sự giải phóng phụ nữ, về quyền bình đẳng bất khả xâm phạm của mỗi con người.
Sự thay đổi thoáng qua ít người chú ý và tưởng như không có gì đặc biệt, nhưng lại trở thành một trong những nhân tố góp phần làm nên giá trị quốc tế, thời đại và sức sống bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập, khắc hoạ sâu sắc trí tuệ, nhân cách, lòng nhân ái, tình yêu thương con người rộng lớn của người viết Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh, người yêu từng ngọn cỏ, mỗi nhành cây và trọn cuộc đời nâng niu tất cả chỉ quên mình.
Minh chứng thêm cho nhân cách, khát vọng của Hồ Chí Minh, giá trị quốc tế của Tuyên ngôn độc lập, chúng ta ngược dòng lịch sử trở về thời điểm Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ghé thăm Tượng Nữ thần Tự Do tại New York, nước Mỹ vào cuối tháng 12/1912 và lưu lại những dòng cảm nhận “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp… Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc?...”.
Khi đó, quả là một câu hỏi lớn không lời đáp! Song là minh chứng về sự hiện hữu suy nghĩ, khát vọng giải phóng con người, giải phóng nhân loại, ước mong có một thế giới đoàn kết đại đồng, nhân ái của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Có lẽ thế, nên khi Việt Nam giành được độc lập, trong Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định quyền độc lập, tự do bất khả xâm phạm của đất nước, con người Việt Nam, thì cũng khẳng định quyền đó với mọi dân tộc, nhân loại trên thế giới. Và đó không chỉ là tinh thần, ý chí, mong muốn của riêng Hồ Chí Minh nữa, mà là truyền thống, mong muốn của cả dân tộc Việt Nam. Ý chí của Hồ Chí Minh – Tuyên ngôn Độc lập – nhân dân Việt Nam đã hoà quyện thành một.
Soi chiếu vào lịch sử nước Mỹ, quê hương của bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 chúng ta thấy, năm 1920, phụ nữ Mỹ mới được công nhận quyền bầu cử trong toàn liên bang (tuy nhiên đối với phụ nữ da đen thì phải đến mãi nửa sau của thế kỷ XX mới được công nhận thực sự) và gần một 100 năm sau ngày Tuyên ngôn độc lập (năm 1865), Hoa Kỳ mới chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ trên toàn liên bang.
Trở lại Việt Nam, ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, toàn thể nhân dân Việt Nam (ngoại trừ những người phản quốc) có lòng yêu nước thì không phân biệt đảng phái, tôn giáo, gái trái, xuất thân… đều có quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia bộ máy Nhà nước mới và ngày 06/01/1946, nhân dân Việt Nam đã thực hiện bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Đó là kết quả nỗ lực, kiên tâm bền chí lãnh đạo của Đảng, sự hy sinh không tiếc máu xương của lớp lớp các thế hệ người dân Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 là áng văn lập quốc, văn kiện quan trọng bậc nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại, là văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định, thông cáo với thế giới về nền độc lập của Việt Nam cũng như định hình, thể hiện quan điểm về quan hệ quốc tế, nội trị, ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do thống nhất… của nước Việt Nam mới. Một minh chứng thực tiễn sinh động khẳng định mối liên hệ gắn bó mật thiết, sự đồng hành tồn tại, phát triển giữa cách mạng, đất nước Việt Nam với cách mạng và sự phát triển của thế giới, thời đại. Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh, hiện thực hoá khát vọng giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam phú cường, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Là điểm tựa vững chắc, sức mạnh tinh thần, nội lực để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển hùng cường, hạnh phúc của dân tộc.
[1] Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t. 2, tr.212