Sau khi hoàn thành tiếp quản Thủ đô, nhiệm vụ cấp bách đặt ra đối với Đảng bộ Hà Nội là phải nhanh chóng lãnh đạo khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội; nhằm ổn định tình hình, tạo cơ sở tiền đề để xây dựng và tiến lên chủ nghĩa xã hội
Tình hình Hà Nội sau Hiệp định Geneva
Trải qua 8 năm chiến tranh bị thực dân Pháp chiếm đóng, Hà Nội bước vào thời kỳ hòa bình với muôn vàn khó khăn, thách thức. Nền kinh tế mang tính chất thuộc địa điển hình, lạc hậu, manh mún, yếu kém về mọi mặt; trong tình trạng đình đốn do địch phá hoại trước khi rút đi. Đời sống của nhân dân nói chung, nhất là nông dân và nhân dân lao động rất khó khăn.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của chính sách cai trị, nô dịch thực dân, với những tệ nạn, hủ tục còn tồn tại khá phổ biến. Tình hình chính trị hết sức phức tạp, với sự ở lại khá đông lực lượng công chức, sĩ quan, binh lính của chế độ cũ[1].
Phải rút đi nhưng Pháp tăng cường cài cắm tay sai, gián điệp, lén lút hoạt động tình báo, thu thập thông tin, kích động nhân dân, gây rối tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn Hà Nội. Các đảng phái lớn nhỏ vẫn lén lút hoạt động chống lại Đảng và chính quyền cách mạng.
Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội phải nhanh chóng ổn định tình hình, bắt tay vào công cuộc khôi phục, phát triển Thủ đô.
Trước tình hình hết sức khó khăn, phức tạp của giai đoạn chuyển đổi từ lãnh đạo thời chiến sang thời bình, Đảng bộ Hà Nội đã nhanh chóng nắm bắt tình hình, nắm vững chủ trương của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ để kịp thời lãnh đạo nhân dân Hà Nội thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng bộ Hà Nội xác định khôi phục kinh tế là trọng tâm công tác.
Lãnh đạo khôi phục kinh tế
Đảng bộ Hà Nội chủ trương “chủ yếu là khôi phục và phát triển thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp”[2]. Nhiệm vụ trọng tâm là chuyển nền kinh tế thuộc địa, mang tính chất thương mại và tiêu thụ sang nền kinh tế sản xuất, có cơ cấu phù hợp, giải quyết nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân, tạo cơ sở để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp: Thành ủy chủ trương khuyến khích tư nhân bỏ vốn sản xuất kinh doanh; đồng thời, tạo điều kiện cho họ vay vốn, cung cấp nguyên liệu để tổ chức sản xuất và giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm.
Bộ đội ta tiến vào tiếp quản Thủ đô ngày 10/10/1954 (Ảnh tư liệu)
Nhờ có chính sách khuyến khích phát triển nên tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp tư doanh của Hà Nội được phục hồi nhanh chóng, đã sản xuất được khối lượng hàng hóa khá lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thành phố như: hàng nhôm, khăn mặt, vải phin, vải chéo, giày vải, bít tất, đồ nhựa, phụ tùng xe đạp, hàng mỹ nghệ…
Đến cuối năm 1957, toàn thành phố có 13.500 cơ sở thủ công nghiệp với 43.000 lao động và 957 cơ sở công nghiệp tư doanh với hơn 8.200 công nhân. Giá trị tổng sản lượng thủ công nghiệp và công nghiệp tư doanh Hà Nội chiếm 25% sản lượng thủ công nghiệp và công nghiệp tư doanh toàn miền Bắc[3].
Từ giữa năm 1956, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về xây dựng thí điểm hợp tác xã thủ công nghiệp ở Hà Nội, Ban vận động HTX thủ công nghiệp Hà Nội được thành lập, với mục đích xây dựng thành phần kinh tế tập thể trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp.
Từ tháng 7/1957, Hà Nội tiến hành thí điểm thành lập các HTX thủ công nghiệp; đến cuối năm 1957, đã xây dựng được 805 tổ sản xuất và tập đoàn sản xuất với gần 15.000 người và 9 HTX sản xuất thủ công với 847 xã viên[4].
Trên cơ sở tiếp quản các cơ sở công nghiệp của chế độ cũ, công nghiệp quốc doanh được phục hồi và bước vào sản xuất. Các nhà máy điện Yên Phụ, Xí nghiệp Hỏa xa Gia Lâm, Xí nghiệp Dược phẩm, Nhà máy Bia, Nước đá… đã nhanh chóng đi vào hoạt động, mở rộng quy mô sản xuất. Ngoài ra, trên địa bàn Hà Nội còn có một số nhà máy mới do Trung ương xây dựng như: Nhà máy Diêm, Nhà máy Gỗ dán, Nhà máy Xay, Nhà máy Cơ khí trung quy mô… góp phần thúc đẩy công nghiệp quốc doanh phát triển.
Trên lĩnh vực thương nghiệp, Chính quyền thành phố cho các cơ sở công, thương nghiệp đăng ký, thu thuế các mặt hàng tồn kho; đồng thời, có chính sách khuyến khích thương nghiệp tư doanh phát triển, theo hướng sắp xếp lại, mở rộng làm kinh tiêu đại lý cho Nhà nước. Thành phố đẩy mạnh vận động tư thương chuyển sang sản xuất, chuyển từ buôn bán hàng xa xỉ phẩm sang buôn bán hàng phục vụ sản xuất và đời sống; hướng dẫn giúp đỡ những người buôn bán nhỏ tổ chức thành tổ mua chung, bán chung hoặc mua chung, bán riêng. Đồng thời, thành phố mở rộng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh; đến năm 1957, đã có 10 công ty với 55 cửa hàng. Ở khu vực ngoại thành, đến năm 1957 cũng thành lập được 11 cửa hàng và 11 tổ bán hàng lưu động. Chính quyền thành phố tăng cường công tác quản lý thị trường, giữ ổn định giá những mặt hàng thiết yếu như gạo, vải, muối, dầu hỏa, xăng, than củi…, nhằm tránh đầu cơ.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, thành phố xây dựng các trạm bơm ở Chèm, Vĩnh Tuy, Nhân Chính, Mai Dịch; tu sửa các công trình tiêu úng như: cống Đình Thôn, cống Cầu Bươu. Đồng thời, để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, thành phố khuyến khích người dân ra sức khai hoang, đào mương, đắp đập; giúp đỡ nông dân tiền vốn để mua sắm nông cụ, phát triển đàn trâu, bò; cung cấp phân bón, thóc giống và hướng dẫn áp dụng những kỹ thuật mới trong sản xuất. Trong giai đoạn 1954-1957, diện tích đất hoang hóa đã được nông dân ngoại thành phục hồi đưa vào canh tác. Sản lượng lúa năm 1955 đạt 14.314 tấn, đến năm 1956 tăng lên đạt 24.000 tấn. Năm 1957, đàn lợn tăng 26%, đàn trâu, bò tăng 1,5% so với năm 1956; hàng triệu con cá giống được ươm thả[5].
Đảng bộ Hà Nội chủ trương vận động nông dân xây dựng các tổ đổi công, làm tiền đề tiến lên hợp tác hóa nông nghiệp. Năm 1956, khu vực ngoại thành Hà Nội đã xây dựng được 411 tổ đổi công, với 3.120 hộ; lúc cao điểm lên đến 2.308 tổ đổi công, với 18.076 hộ, chiếm tỷ lệ 65,6% số hộ nông dân ngoại thành; trong đó có 384 tổ thường xuyên[6].
Mặc dù còn mắc một số hạn chế trong chỉ đạo thực hiện xây dựng tổ đổi công sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã thủ công nghiệp, trong quản lý và hoạt động của mạng lưới thương nghiệp quốc doanh; song chỉ trong 3 năm (1954-1957), công cuộc khôi phục kinh tế của Hà Nội đã đạt được những kết quả quan trọng, mang lại sự ổn định cho nền kinh tế Thủ đô sau chiến tranh.
Đường phố Hà Nội năm 1955, Ngã 5 Cửa Đông-Nhà Hỏa-Hàng Gà- Hàng Phèn (Ảnh tư liệu)
Lãnh đạo khôi phục và phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao
Trong lĩnh vực giáo dục, Đảng bộ Hà Nội chủ trương tạm thời giữ nguyên tổ chức giáo dục cũ trên cơ sở rà soát lại nội dung, cải tiến chương trình thành hệ 10 năm; loại bỏ những nội dung có tính chất phản động; phục hồi nhanh chóng tất cả các cấp học và các trường học, đặc biệt chú trọng đến giáo dục tiểu học và trung học; giữ nguyên và khuyến khích các trường tư thục hoạt động trở lại.
Năm học 1956-1957, toàn thành phố có 71 trường cấp I, 15 trường cấp II và cấp III. Bên cạnh đó, Đảng bộ chủ trương tăng cường phát triển bình dân học vụ, với việc thành lập Ban vận động thanh toán nạn mù chữ thành phố được thành lập vào năm 1956. Các trường đại học, trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội do Bộ Giáo dục quản lý được khôi phục và hoạt động trở lại. Một số trường đại học mới được thành lập như: Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Nông nghiệp, Trường Cao đẳng Mỹ thuật…, đã thúc đẩy ngành giáo dục của Hà Nội phát triển. Thành ủy Hà Nội còn cử hàng trăm cán bộ theo học văn hóa, điều động một số cán bộ tham gia các lớp nghiệp vụ trong và ngoài nước, nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ phụ trách quản lý về mặt Nhà nước trên các lĩnh vực.
Đối với lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, Đảng bộ chủ trương đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, mở thêm các phòng khám bệnh và phát thuốc, xây dựng mới một số trạm xá, nhà hộ sinh ở các khu lao động; thành lập các ban vệ sinh phòng bệnh ở các cơ quan, xí nghiệp, trường học. Đến cuối năm 1956, Hà Nội đã hình thành mạng lưới y tế ở các xã ngoại thành và các cơ quan, xí nghiệp trường học; các dịch bệnh bị đẩy lùi.
Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, Đảng bộ Hà Nội chỉ đạo các cấp chính quyền cương quyết xóa bỏ các hủ tục, văn hóa phẩm đồi trụy, các tệ nạn, mê tín dị đoan, nhằm thực hành xây dựng nếp sống mới văn minh, lành mạnh. Đồng thời, phong trào văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao nhân dân được đẩy mạnh ở cả nội thành và ngoại thành. Lời ca, tiếng hát của các đội văn nghệ quần chúng góp phần tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi trong nhân dân.
Sau ngày tiếp quản Thủ đô. Đảng bộ Hà Nội đã phát huy cao độ tính chủ động, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo, nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, trật tự, an ninh xã hội, thực hiện công cuộc khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội. Chỉ sau 3 năm (1954-1957), mặc dù gặp phải muôn vàn khó khăn, cản trở, do hậu quả chiến tranh và sự chống phá của các thế lực đế quốc, phản động; song, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã căn bản hoàn thành thắng lợi công cuộc khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội; bước đầu xây dựng được nền tảng về mọi mặt của chế độ dân chủ nhân dân, làm tiền đề đưa Hà Nội cùng với các địa phương miền Bắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
[1] Số công chức người Việt của chính quyền cũ ở lại Hà Nội là 7.861 người; số sĩ quan, binh lính xin trình diện chính quyền thành phố là 12.000 người; ngoài ra, vẫn còn một bộ phận sống lén lút, trốn tránh chính quyền.
[2] Nghị quyết Thành ủy ngày 15/10/1955: Về tình hình và nhiệm vụ công tác. Lưu trữ văn phòng Thành ủy Hà Nội.
[3] Báo cáo của Ủy ban Hành chính thành phố về nhiệm vụ kế hoạch 1958. Lưu Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
[4] Báo cáo của Ban vận động HTX thủ công: Tổng kết kinh nghiệm xây dựng phong trào HTX thủ công năm 1957. Lưu Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
[5] Nghị quyết Hội nghị Thành ủy ngày 08/3/1956. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội.
[6] Báo cáo của Ban công tác nông thôn, tháng 5/1958: Tổng kết phong trào đổi công từ sau cải cách ruộng đất đến tháng 4/1958. Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.