1. Nhận diện được “thời đoạn vàng”
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II đến giai đoạn chót, các nước đồng minh đã giải quyết vấn đề Đông Dương trên cơ sở lợi ích của mình mà không tính tới nguyện vọng, đóng góp của nhân dân nơi đây. Danh nghĩa là “đồng minh giải giáp quân Nhật” nhưng bản chất là “thực hiện lợi ích đã được thương lượng” giữa các nước thắng trận.
Tại Hội nghị Pốtxđam tháng 7/1945, các nước thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp phân chia phạm vi ảnh hưởng thế giới. Theo đó, Mỹ - Anh kiểm soát vùng Tây Âu (thực chất muốn kiểm soát cả Đông Âu nhưng không chạy kịp với quân đội Xô viết), châu Á - Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ; giúp Pháp chiếm lại các thuộc địa bị mất vào tay phát xít Nhật, Ý, Đức trong chiến tranh. Vì chủ trương “quản trị quốc tế” đã bị chôn vùi theo cái chết của tổng thống Rudơven ngày 12/4/1945 nên tại hội nghị này, Mỹ - Anh đã thỏa thuận xong và đi đến quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới hành quân và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật ở đây. Theo đó, phía Nam vĩ tuyến 16 thuộc quyền của quân đội Anh còn phía Bắc thuộc quyền quân đội Mỹ nhưng Mỹ lại nhường cho quân Tưởng làm nhiệm vụ này. Sau đó, Anh thoả thuận với Pháp một số vấn đề về việc khôi phục quyền của Pháp ở Đông Dương; công khai ủng hộ Pháp tái chiếm Việt Nam, công nhận chính quyền Pháp ở Sài Gòn, chuyển giao quyền cai trị Nam Đông Dương cho Pháp[1]. Sau khi Pháp được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức, lập tức tuyên bố Đông Dương là của Pháp, xúc tiến việc trở lại nơi đây.
Theo đó, Anh sẽ “dọn đường” cho Pháp còn Mỹ sẽ “hộ tống” cho Tưởng vào nước ta ngay sau khi Nhật đầu hàng. Cho nên, “thời đoạn vàng” để chúng ta thay đổi số phận là từ khi Nhật đầu hàng đồng minh đến trước khi quân đồng minh vào Đông Dương tước khí giới của Nhật. Nếu bỏ qua thời đoạn này, thì “chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[2].
2. Thúc đẩy các điều kiện nội lực
Nhận thấy tình thế mới cho phép và đòi hỏi một chuyển hướng chiến lược nhằm tạo ra đầy đủ khả năng đoàn kết tất cả các giai tầng xã hội xung quanh liên minh công nông quyết giải phóng dân tộc, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo toàn dân tộc tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đồng thời theo dõi sát sao diễn biến quan hệ giữa phe đồng minh và phe phát xít để xác định đúng và kịp chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
Tháng 11/1939, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định) nhận định Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; nên ta phải đoàn kết thực hiện cho bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc. Theo đó, Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời. Tháng 6/1940, phát xít Ðức tiến công Pháp, Pari nhanh chóng thất thủ và đến tháng 9/1940 thì ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn. Giữa lúc Nhật - Pháp đang tranh nhau miếng mồi Ðông Dương, Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng tháng 11/1940 (tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) xác định kẻ thù của cách mạng Đông Dương là Pháp - Nhật, đẩy mạnh thêm một bước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng (tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng) do Bác Hồ chủ trì, nhận định thắng lợi cuối cùng thuộc về phe đồng minh, nên ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng và đứng về phe đồng minh chống phát xít, bằng mọi giá phải giải phóng dân tộc, Mặt trận Việt Minh ra đời. Tiếp đó, trong Thư kính cáo đồng bào (6/6/1941), Bác Hồ kếu gọi “nay cơ hội giải phóng đến rồi’, “hãy phất cao cờ độc lập”, “toàn thể đồng bào tiến lên”, rồi trong tác phẩm Lịch sử nước ta xuất bản đầu năm 1942, Người dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập. Đến Hội nghị tháng 2/1943, Đảng xác định cách mạng Đông Dương “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao” và tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Từ tháng 10/1944, Người nhận định phe phát xít gần đến ngày bị tiêu diệt, phe đồng minh sắp thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho ta giải phóng dân tộc chỉ trong một hoặc một năm rưỡi nữa[3].
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Ðảng ta nhận định thời cơ khởi nghĩa đang đến, nên ngày 12/3/1945 ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Tháng 7/1945, khi phát xít Ðức, Ý bại trận ở chiến trường châu Âu, phát xít Nhật đang trên đường sụp đổ ở chiến trường châu Á, thì tại lán Nà Lừa, Bác Hồ tuy đang ốm rất nặng nhưng vẫn căn dặn: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[4]. Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng đồng minh, binh lính Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim như “rắn mất đầu”. Trong khi đó, quân đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé, tranh giành quyền lực, điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Ngày 12/8/1945, được tin Nhật gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị mở cuộc đàm phán ngừng bắn thì ngày 13/8/1945, Đảng ta triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) xác định đây là “dịp tốt cho ta nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông”; đồng thời dự đoán mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương[5], nên phải “kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ” tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Trưa 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc thành lập thì đêm hôm đó, Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) phát đi thông điệp: Giờ tổng khởi nghĩa đã đến. Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; quy định quốc kỳ, quốc ca...; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Người có thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
3. Hai tuần làm thay đổi số phận một dân tộc
Tổng khởi nghĩa từ đêm 13 rạng sáng ngày 14/8/1945, đến ngày 28/8/1945, các địa phương trong cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Giữa lúc lực lượng cách mạng và phản cách mạng, giữa dân tộc ta và quân Anh, Mỹ, Tưởng, Pháp đang diễn ra cuộc chạy đua giành lấy quyền làm chủ Việt Nam và Đông Dương từ tay Nhật thì chúng ta nhờ đã tích cực chuẩn bị từ trước về mọi mặt, luôn trong tư thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa, bám sát tình hình để chớp thời cơ. Do vậy, chỉ trong vòng hai tuần lễ, chúng ta đã lật ngược được tình thế, thay đổi số phận từ một nước thuộc địa thành một nước độc lập, có chủ quyền. Đồng thời, chúng ta cũng làm cho nhân dân thế giới thấy rằng, dân tộc Việt Nam cùng với lực lượng đồng minh chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình thế giới, “nhân dân Việt Nam không phải chỉ riêng mình mà chiến đấu mà còn vì hoà bình, dân chủ và độc lập trên thế giới mà chiến đấu”[6].
Nếu đặt cuộc Cách mạng tháng 8/1945 trong bối cảnh khu vực, thế giới lúc bấy giờ và trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy sự vĩ đại, càng khâm phục tài năng, tính sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức mạnh đại đoàn kết, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam được kết tinh từ mấy ngàn năm văn hiến. Nhật đầu hàng đồng minh, về khách quan đã tạo ra thời cơ thuận lợi cho các dân tộc bị phát xít Nhật thống trị vùng lên giải phóng chứ không chỉ riêng cho Việt Nam. Nhưng làm được một cuộc cách mạng thành công triệt để, mau lẹ, ít đổ máu như Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thì chỉ có một mà thôi. Lúc bấy giờ, nhiều nước ở châu Á cũng tận dụng cơ hội này để thoát khỏi ách phát xít, thực dân như Trung Hoa, Triều Tiên, Inđônêxia; hay các dân tộc Miến Điện, Mã Lai, Philippin cũng tổ chức kháng Nhật, nhưng đến khi Nhật thất bại, họ không đủ quyết tâm, không đủ lực lượng nên không giành được thắng lợi.
4. Sống mãi với thời gian!
Đó là minh chứng về vai trò của Đảng và Bác Hồ vạch đường lối, lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân đoàn kết thành một khối, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945. Đồng thời, đó còn là bằng chứng sống mãi với thời gian, có giá trị phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, xem nhẹ sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Đó còn là bài học có thể vận dụng vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, đó là: theo dõi, nắm bắt tình hình thế giới; luôn chủ động phát huy nội lực; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; phát hiện và chớp thời cơ để làm nên những thắng lợi vĩ đại tiếp theo!
[1] Cách mạng tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.28
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Sđd, tr.120.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, tr.506.
[4] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.196.
[5] Văn kiện Đảng toàn tâp, tập 7, Nxb CTQG, HN, 2002, tr.422 -427.
[6] Trường Chinh: Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự thật, HN, 1946.