Ngày 24/9/2025, tại trụ sở của Liên Hợp quốc ở New York, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với quốc đảo Tuvalu, hoàn tất thiết lập quan hệ ngoại giao với toàn bộ 193 quốc gia thành viên của Liên Hợp quốc. Từ một quốc gia không được công nhận, bị cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên hội nhập tích cực, có vị thế, uy tín, trách nhiệm trên trường quốc tế.

Ngày 23/9/2025, Chủ tịch nước Lương Cường phát biểu tại Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 80

(Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam)

        Từ 0 đến 193 - Hành trình khẳng định tính chính danh trên bản đồ thế giới

        Cách mạng tháng Tám (năm 1945) thắng lợi đã đưa dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa, bị xóa tên trên bản đồ thế giới trở thành một nước độc lập. Trong thời khắc lịch sử đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới sự ra đời và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngày độc lập, nước Việt Nam dân Chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát đi thông điệp ngoại giao với thiện chí mong muốn được công nhận, sẵn sàng hợp tác, đóng góp cho nền hòa bình, an ninh và phát triển nhận loại. Mặc dù, những nỗ lực của ta không được các nước công nhận nhưng nền ngoại giao non trẻ đã góp phần giữ vững chính quyền cách mạng và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.

        Trước sự bao vây, cô lập của các nước đế quốc, Việt Nam vẫn kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại “thêm bạn bớt thù” vừa tiến hành kháng chiến vừa cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của các nước và lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Bước ngoặt lớn về ngoại giao Việt Nam khi Trung Quốc, Liên Xô và lần lượt các xã hội ở Đông Âu đã công nhận, đặt quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam (năm 1950); trong đó, Liên Xô thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Kể từ đó, Việt Nam từng bước phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng kết nối không ngừng tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc làm nên thắng lợi ngoại giao Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), Hiệp định Paris (năm 1973), góp phần khẳng định, củng cố tính chính danh của nước Việt Nam độc lập, thống nhất trong mắt bạn bè quốc tế.

        Từ năm 1975 cho đến nay, ngoại giao Việt Nam đóng vai trò quan trọng giữ vững độc lập, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đặc biệt, từ năm 1986, khi đất nước tiến hành đổi mới toàn diện thì nền ngoại giao Việt Nam có bước chuyển mạnh mẽ từ tư duy “đối đầu” sang “đối thoại, hợp tác và phát triển”; “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại trên nguyên tắc: “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và Luật pháp quốc tế”. Với chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, ngoại giao Việt Nam từng bức phá vỡ tảng băng bao vây, cấm vận, phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, các nước không cùng ý thức hệ chính trị, đồng thời làm trọn nghĩa vụ quốc tế.

        Những nỗ lực không biết mệt mỏi của Đảng, Nhà nước đặc biệt là ngành ngoại giao đã tạo nên quả ngọt khi Việt Nam từng bước bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995), thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ (193/193 quốc gia thành viên của Liên Hợp quốc); có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 30 quốc gia (5/5 quốc gia là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc)[1]. Đồng thời, Việt Nam liên tiếp được kết nạp làm thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế: Liên Hợp quốc (năm 1977), ASEAN (năm 1995), ASEM (năm 1996), APEC (năm 1998) và WTO (năm 2007)…. khẳng định tính chính danh, vị thế của của một nước Việt Nam độc lập, thống nhất trên bản đồ chính trị - kinh tế thế giới.

        Từ 0 đến 193 – Hành trình khẳng định cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế

        Sự kiện Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với quốc đảo Tuvalu, không chỉ là dấu mốc hoàn tất hành trình thiết lập quan hệ ngoại giao với toàn bộ 193 quốc gia thành viên của Liên Hợp quốc mà còn khẳng định cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Vậy vị thế, uy tín của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế xuất phát từ đâu?

        Cần phải khẳng định rằng, vị thế, uy tín của Việt Nam không phải được bất cứ nước nào “ban cho”, mà là kết tinh của nhiều yếu tố trong đó có thể kể đến như:

         Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia yêu chuộng những giá trị hòa bình, độc lập, tự do. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất không chịu khuất phục trước cường quyền, bạo tàn, quyết hy sinh đến cùng để bảo vệ nền hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc. Những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trước các thế lực ngoại bang đã đưa Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong các dân tộc yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do. Việt Nam trở thành hình mẫu thúc đẩy các dân tộc nhỏ yếu, bị áp bức trên thế giới đứng lên đấu tranh cho nền độc lập, tự do của chính dân tộc họ.

         Thứ hai, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, lấy hòa bình, hợp tác, phát triển làm điểm tựa cho sự phát triển chính sách ngoại giao.

        Hiện nay, các nước lớn vẫn không từ bỏ âm mưu can dự chi phối các nước nhỏ bằng nhiều biện pháp khác nhau buộc các nước này phải đứng trước tình thế “chọn bên”. Nhưng Việt Nam với đường lối đối ngoại và chính sách “ngoại giao cây tre”  khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển nhưng kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ đã giúp Việt Nam không những giữ được thế cân bằng mà còn tận dụng được thế hợp tác và cạnh tranh chiến lược của các cường quốc để phát triển đất nước.

        Thứ ba, sau 50 năm thống nhất và gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, từ quốc gia nằm trong nhóm 20 nước nghèo nhất thế giới, Việt Nam đã vươn lên thành thành nền kinh tế đứng thứ 32 thế giới, thứ 4 trong các quốc gia ASEAN; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 4.700 USD vượt ra khỏi nhóm quốc gia có thu nhập thấp; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tuổi thọ và chỉ số phát triển con người nằm ở nhóm trung bình cao của thế giới[2]; có quan hệ ngoại giao và kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, 73 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Từ thành tựu trên Việt Nam đã minh chứng cho bạn bè quốc tế thấy được tinh thần tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước ngày một phồn vinh, hạnh phúc.

        Thứ tư, là quốc gia chịu nhiều mất mát, đau thương bởi chiến tranh, Việt Nam thấu hiểu được giá trị hòa bình, độc lập phải đổ biết bao nhiêu xương máu mới có được. Chính vì vậy, từ trong lịch sử, Việt Nam là quốc gia luôn lấy hòa hiếu, hòa bình, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển đất nước, hội nhập khu vực và quốc tế. Vì thế, Việt Nam được bạn bè quốc tế tín nhiệm đề cử nhiều trọng trách quan trọng trong các cơ chế, diễn đàn đa phương: Việt Nam 2 lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc với số phiếu gần như tuyệt đối, Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp quốc khóa 77, thành viên Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc… đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình, tham gia vào các nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn quốc tế.

        Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia tích cực vào giải quyết về tranh chấp khu vực và quốc tế; đồng thời, là quốc gia có tranh chấp chủ quyền với các nước ở Biển Đông, nhưng Việt Nam luôn thi hành và kêu gọi các bên kiềm chế cùng xử lý, giải quyết những vấn đề dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và Luật pháp quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam cũng là quốc gia luôn lên tiếng bênh vực những dân tộc, quốc gia bị áp bức, kêu gọi và sẵn sàng hỗ trợ nhân đạo cho các quốc gia bị tổn thương bởi chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…

        80 năm đã trôi qua, từ một quốc gia không được công nhận, bị cô lập, bao vây, cấm vận, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ dần định hình và khẳng định vị thế, uy tín và trách nhiệm của mình trên bản đồ thế giới. Từ 0 đến 193, đó không chỉ là hành trình mở rộng quan hệ ngoại giao đơn thuần, mà còn là hành trình khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Việt Nam hôm nay không chỉ được thế giới biết đến như một quốc gia phát triển năng động, mà còn là hình mẫu của một dân tộc có uy tín, có trách nhiệm, biết trân trọng hòa bình và đóng góp chân thành cho nhân loại.

 

[1] Xem, Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr.166.

[2] Xem, Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.20.