Cách đây 80 năm, khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới thành lập, nước ta còn muôn vàn khó khăn, thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng trên báo Cứu Quốc số 69 ngày 17/10/1945, khẳng định mục tiêu cao nhất của Chính phủ là phụng sự nhân dân, tất cả những việc có lợi cho dân đều hết sức làm, những việc có hại cho dân đều hết sức tránh
1. Mở đầu bức thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở sự lầm than, đói khổ của nhân dân khi bị thực dân, phát xít xâm chiếm, áp bức, nhờ có sự đoàn kết một lòng của nhân dân với Chính phủ, đất nước được độc lập, tự do, nhưng “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[1]. Chính phủ đã hứa với nhân dân sẽ cố gắng làm cho ai nấy đều hạnh phúc, các cơ quan của Chính phủ đều là “công bộc” của dân, để gánh vác việc của dân, chứ “không phải đè đầu dân”. Do đó, Bác căn dặn: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[2].
Trong thư, Bác nêu rõ: “Cán bộ ta nhiều người “cúc cung tận tụy”, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ... Nhưng cũng có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”. Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được hết. Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng phương châm. Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung.
Trong bài “Chính phủ là công bộc của dân”, Bác đã nhắc nhở chọn lựa những người tốt vào ủy ban nhân dân các làng, phủ. Người nhắc rằng phải chọn người công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng… được dân làng tín nhiệm; dứt khoát không thể để ai “nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui vào lọt các Ủy ban đó”. Bác cũng cảnh báo việc các nhân viên ủy ban lợi dụng danh nghĩa ủy ban để “gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê phán các tệ “Trái phép”, “Cậy thế”, “Hủ hóa”, “Tư túng”, “Chia rẽ”, “Kiêu ngạo” của cán bộ, đảng viên các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Thật đáng lo ngại khi mà chính quyền nhân dân non trẻ vừa mới được thành lập, nhưng các tệ nạn đó trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng bắt đầu nảy sinh và tác oai tác quái. Người phê phán tệ nạn sa ngã, sa đọa mà thời đó gọi là hủ hóa: “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?”. Người đặc biệt cảnh cáo tệ nạn tư túng. Bác viết: “Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”[3].

Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần hỏi thăm bà con nông dân (Ảnh tư liệu)
2. Trong suốt 80 năm qua, nhờ quán triệt phương châm “việc gì lợi cho dân phải hết sức làm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ luôn thực hiện tốt mục tiêu “vì dân, vì nước”. Chính phủ Việt Nam qua các giai đoạn đầy cam go, thử thách nhưng cũng rất vẻ vang, vinh dự, tự hào của Cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của đồng chí Tổng Bí thư qua các thời kỳ, từ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1945 đến Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đều đoàn kết, thống nhất, "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt", luôn nỗ lực hết sức mình, phấn đấu không ngừng nghỉ, tất cả vì mục tiêu "Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội" và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, góp phần đạt được những thắng lợi to lớn, tạo nên những bước ngoặt có tính "xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ lâm thời vừa tập trung tổ chức, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, vừa chống “thù trong, giặc ngoài”, vừa xây dựng và củng cố tiềm lực đất nước. Tổ chức rộng khắp Phong trào “Diệt giặc đói” với “Hũ gạo cứu đói”, Phong trào “Diệt giặc dốt” với “Bình dân học vụ”, Phong trào “Tuần lễ vàng” để quyên góp tài lực cho nền tài chính quốc gia non trẻ. Chính phủ lâm thời tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 6/1/1946. Ngày 02/3/1946, Quốc hội khoá I kỳ họp thứ nhất đã thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 14 thành viên và ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chính phủ gánh vác sứ mệnh lịch sử góp phần thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trước âm mưu cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thể hiện sự sẵn sàng hy sinh và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam chúng ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta tiến hành “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, làm nên thắng lợi của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Geneva về chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Chính phủ góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chính phủ tập trung xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Sau khi đất nước được thống nhất, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI (năm 1976) đã quyết định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ (từ tháng 7/1981 đến tháng 9/1992 là Hội đồng Bộ trưởng) tập trung chỉ đạo bắt tay vào xây dựng và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất kinh doanh, đồng thời tiếp tục chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia anh em thoát khỏi chế độ diệt chủng Polpot Yengsari.
Chính phủ thực hiện thành công chủ trương, đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng (từ tháng 10/1992 là Chính phủ) đã chủ động, tích cực chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế với 3 trụ cột: xóa quan liêu bao cấp; phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu và mở cửa, hội nhập với bên ngoài. Tập trung đổi mới đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, từ xây dựng thể chế, pháp luật đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống nhân dân đến củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việt Nam từ một nền kinh tế dựa vào viện trợ, bị bao vây, cấm vận đã trở thành một nền kinh tế mở, năng động, sáng tạo, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực, thế giới, thuộc nhóm 15 quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu và nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu. Đặc biệt, nước ta đã huy động nguồn lực, tập trung thực hiện hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Việt Nam được đánh giá là hình mẫu thành công trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDGs) của thế giới, hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo trước thời hạn 10 năm.
Chính phủ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh toàn diện công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định cho hợp tác và phát triển đất nước.
Phát huy truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử của Cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ của Quốc hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên bố trí nguồn lực để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát triển mạnh công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh lưỡng dụng; tăng cường phòng, chống tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh toàn diện, sâu rộng, kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” - kết hợp hài hòa giữa độc lập, tự chủ, kiên định về chiến lược với mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; có quan hệ ngoại giao với gần 200 nước; quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược hoặc đối tác chiến lược toàn diện với 38 quốc gia, trong đó có tất cả 5 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, làm cho đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[4]. Chính phủ tập trung thực hiện quyết liệt, hiệu quả chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
80 năm qua, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ Việt Nam luôn kề vai, sát cánh cùng cả hệ thống chính trị và đồng bào, chiến sỹ cả nước nỗ lực vượt qua mọi gian nan, khó khăn, thử thách, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại, đạt được những thành tựu vĩ đại, thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân và đưa đất nước vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển.
