2.4. Bài học về đa đảng và sự đổ vỡ của Liên Xô ở thập niên 1990
Khoảng hai thập niên cuối của thế kỷ XX, Liên bang Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu rơi vào khủng hoảng và cuối cùng là đổ vỡ, thất bại. Có nhiều nguyên nhân làm cho thảm kịch được xem như lớn nhất của thế kỷ XX đó diễn ra, nhưng đau đớn nhất chính là những người nhân danh Đảng tuyên bố thủ tiêu Đảng, giải tán Đảng. Dưới chỉ dẫn của Mỹ, M.Gorbachev và các nhà lãnh đạo cao cấp Liên Xô đã thực hành đường lối phản bội nhân danh “cải tổ” để thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Sau khi “thành trì” của hòa bình và chỗ dựa của phong trào cách mạng thế giới sụp đổ, chẳng còn gì phải giấu giếm, M.Gorbachev đã huỵch toẹt: Tất cả những gì tôi làm với Liên Xô, tôi đã làm! khi ông ta cho ý kiến tại Nghị viện Israel vào tháng 2/1992 và phơi bày sự phản bội của mình trong bài phát biểu tại một cuộc hội thảo tại Đại học Hoa Kỳ ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1999 rằng mục đích của “cải tổ” cũng như toàn bộ đời ông là xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và tiêu diệt chế độ cộng sản chủ nghĩa[1].
Yếu tố then chốt của sự thực hiện công cuộc cải tổ là M.Gorbachev chủ trương xây dựng “chế độ đa nguyên, đa đảng”, theo đó tách Đảng Cộng sản Liên Xô ra khỏi bộ máy lãnh đạo của chính quyền Xôviết. Đứng đầu là M.Gorbachev cùng một số người trong Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành Đại hội bất thường của các đại biểu nhân dân ngày 15-3-1990, quyết định sửa đổi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, hiến định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ “đóng vai trò lãnh đạo nhà nước và toàn bộ xã hội Xôviết” thành “chia sẻ quyền lãnh đạo với các chính đảng khác và chấp nhận chế độ đa đảng”. Đó cũng là lúc vô số các tổ chức, đảng phái chính trị, đối lập “mọc ra như nấm sau mưa” để cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đa đảng ra đời không những không được thết đãi bầu không khí dân chủ mở rộng hơn thì lại bùng phát những sự hỗn loạn như mất phương hướng dư luận xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị xã hội chủ nghĩa tốt đẹp, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa dân tộc, ly khai tại các nước cộng hòa tự trị và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trỗi dậy, tạo điều kiện cho các phần tử bất đồng chính kiến, những kẻ cơ hội chính trị đủ mọi phe phái lộng hành, tập hợp thành các phong trào chống đối. Kết cục bi thảm đã được dự báo trước: uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô suy giảm thê thảm và chính thức mất quyền lãnh đạo đất nước vào ngày 26/12/1991.
Bài học về đa nguyên, đa đảng mà Liên Xô đã phải trả một cái giá rất đắt cũng là cảnh tỉnh cho các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng đang trên con đường xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không được phép coi thường hoặc lãng quên.
2.5. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền - sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc và mang tính tất yếu lịch sử
Tính đến những năm 20 của thế kỷ XX đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam dưới ngọn cờ của các sĩ phu, các nhà yêu nước đương thời đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858 nhưng đều bị đàn áp và thất bại. Nguyên do không thành công của những phong trào đó có nhiều, song cơ bản là do chưa có một tổ chức tiên phong lãnh đạo với một đường lối cách mạng, khoa học đúng đắn. Trước đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc và thực tiễn từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã đưa đến kết quả tất yếu là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời không những chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà còn trở thành hiện thân tiêu biểu cho lợi ích, khát vọng và ý chí của toàn thể giai cấp công nhân, quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Đảng ra đời, trưởng thành với đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, nên mới 15 tuổi đã lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó cũng chính là dấu mốc thực tiễn sinh động đầu tiên chứng minh luận điểm “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2], làm sáng tỏ nhận định của Nguyễn Ái Quốc về chủ nghĩa Lênin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”[3] và cũng là khẳng định con tàu cách mạng Việt Nam chỉ cần duy nhất một người chèo lái - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các mốc son lịch sử kế tiếp sau đó đến hiện tại là những thành tựu của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới để mang lại cho đất nước ta “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” đã tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò không thể thay thế của một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và mô hình nhất nguyên chính trị đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Thành tựu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần không ngừng phát triển và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa không những không bị hạn chế mà còn được đề cao, đảm bảo và phát huy sâu rộng trong thực tế là hai nhân tố quan trọng trong sự thành công tổng thể đó là minh chứng thuyết phục nhất góp phần bác bỏ luận điệu sai trái đòi thay đổi độc đảng bằng chấp nhận đa đảng của các thế lực thù địch.
Thực tế lịch sử từ khi Đảng ra đời đến nay, có thời điểm, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988), Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988)… nhưng trên thực tế, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng. Hai đảng này không đối lập mà ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hoàn toàn tự nguyện giải tán.
Trong những năm đầu đổi mới, khi thành trì xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ và Liên Xô sắp tan rã là giai đoạn rất khó khăn của dân tộc nhưng Đảng ta cũng đã thể hiện trách nhiệm, năng lực, bản lĩnh của mình khi tiến hành Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) thành công và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - văn kiện là tuyên bố đanh thép về lập trường: kiên định mục tiêu và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó cũng là thêm lần nữa kiểm chứng vượt qua thử thách của sự dao động, hoài nghi về năng lực duy nhất lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại 95 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 95 năm qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu, cùng sự hy sinh, chiến đấu, lao động sáng tạo của toàn dân, toàn quân dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Trong những thời điểm khó khăn, thử thách, Đảng ta đã thể hiện rõ bản lĩnh, tinh thần đoàn kết, là một khối thống nhất về ý chí và hành động, từ đó lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nỗ lực cố gắng đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Đồng thời, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, vững mạnh, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân. Thực tiễn đó đã khẳng định: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[4].
3. Kết luận
Có thể thấy, tìm mọi cách để chối bỏ phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những âm mưu, thủ đoạn trực diện và thường xuyên nhất của các thế lực thù địch, vì đó là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất (đã từng làm tan rã Liên Xô và sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu) để phủ nhận thành quả cách mạng, kết thúc con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và hướng lái Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điệp khúc “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài” cứ được thường xuyên gào lên thét lại là chiêu bài “lộng giả thành chân” của các thế thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” hòng làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng, dọn đường cho tư tưởng, văn hóa và nền dân chủ tư sản phương Tây xâm lấn và lên ngôi.
Tuy nhiên, trong nhận thức luận về công tác xây dựng Đảng cần lưu ý cơ bản là chúng ta không cần và không chấp nhận đa đảng; nhưng đồng thời phải thừa nhận tồn tại nguy cơ có thể xảy ra sự độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ với chỉ duy nhất một đảng cầm quyền. “Đảng ta là một đảng cầm quyền” – với điều kiện duy nhất Đảng ta cầm quyền thì dễ phát sinh thói “công thần”, “kiêu ngạo cộng sản” nên trong Di chúc, Bác Hồ đã cảnh báo và căn dặn cán bộ đảng viên phải “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Nếu không “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, quên mình là “đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, thì đó cũng là lúc “bệnh quan cách mạng”, “bệnh kiêu ngạo cộng sản” trong cán bộ, đảng viên bùng phát và hẳn nhiên sự khiêm tốn, cầu thị sẽ không còn đất sống. Bệnh kiêu ngạo dễ dẫn đến mất dân chủ, xa dân, sai về đường lối, hư hỏng về đạo đức và đương nhiên không còn xứng đáng là người lãnh đạo và xa hơn là nguy hại của đảng cầm quyền và tương lai của dân tộc. Đây cũng chính là lý do mà 95 năm ra đời và trưởng thành, Đảng ta luôn nhận thức rõ yêu cầu phải thực hiện phòng, tránh các nguy cơ đó một cách chủ động, khoa học, có hiệu quả bằng cách tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh để xứng đáng là một đảng cách mạng chân chính, “là đạo đức, là văn minh”.
[1]. Xem Patronica.ru (1999): “Речь М.С. Горбачева на семинаре в Американском университете в Турции” - Bài phát biểu của Gorbachev tại cuộc hội thảo tại Đại học Hoa Kỳ ở Thổ Nhĩ Kỳ.
[2]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12, tr.30.
[3]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr.289.
[4] Tổng Bí thư Tô Lâm: Rạng rỡ Việt Nam, tại trang: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/rang-ro-viet-nam-813840.