
Không gian trưng bày “Toàn văn Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng”
được đặt tại trụ sở Báo Nhân Dân, số 71 Hàng Trống (phía hồ Hoàn Kiếm)
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, ngọn nguồn mọi thắng lợi của Dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã cho thấy, khi nào dân ta muôn người như một thì không có khó khăn, thử thách nào không vượt qua. Ngược lại, vì lý do gì trong nội bộ cộng đồng quốc gia, dân tộc không đoàn kết, thống nhất, ắt sẽ dẫn đến sự thất bại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy tối đa tinh thần đoàn kết, nhờ đó dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, vẻ vang, có những thắng lợi mang tính thời đại.
Sức mạnh, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc là vô cùng quan trọng, tuy nhiên việc thiết lập khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của con người, từ mong muốn của chủ thể cầm quyền mà còn phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khách quan khác.
Những quan điểm chủ yếu về đại đoàn kết toàn dân tộc đã được nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIV của Đảng
Một là, dự thảo Báo cáo chính trị đã làm rõ những yêu cầu về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay phải bảo đảm các yêu cầu sau: (1) “Giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích”[1] giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp, các thành phần xã hội. Lợi ích ở đây được hiểu toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, cả trước mắt và lâu dài, cả vật chất và tinh thần. Chỉ khi lợi ích được giải quyết hài hòa, mỗi cá nhân, cộng đồng mới tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tin tưởng lẫn nhau, từ đó mới xây dựng được khối đại đoàn kết. (2) Dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo[2]. Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là lực lượng to lớn, chiếm đại đa số trong các tầng lớp nhân dân, đóng vai trò nòng cốt đã làm nên các chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy khối liên minh ấy phải phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để cùng thống nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng và dân tộc đã đề ra. (3) Đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở “bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội và mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội và thụ hưởng các thành quả phát triển đất nước”[3]. Đây là yêu cầu nền tảng để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước; cũng là biểu hiện bản chất nhăn văn, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa hội ở Việt Nam. Công bằng, bình đẳng cả về cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các thành quả của quá trình phát triển đất nước.
Hai là, dự thảo Báo cáo chính trị đã làm rõ những nội dung trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay bao gồm các giai cấp, tầng lớp, mọi giới, lứa tuổi, thành phần xã hội. Cụ thể gồm: giai cấp công nhân; giai cấp nông dân; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; phụ nữ; doanh nhân, thế hệ trẻ; cựu chiến binh, cựu công an nhân nhân; người cao tuổi; đồng bào các dân tộc; các tôn giáo; người Việt Nam ở nước ngoài[4]. Mỗi giai cấp, tầng lớp có đặc điểm lao động, địa vị kinh tế - xã hội khác nhau nhưng đều là người Việt Nam, đều có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có chính sách nhằm phát triển, phát huy tối đa nguồn lực, sức mạnh khối đại đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội.
Ba là, dự thảo Báo cáo chính trị đã nêu được phương thức để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đã nêu ra một số phương thức: (1) “Nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng với quốc gia - dân tộc”[5]. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một quan hệ chính trị, dựa trên sự tin cậy, niềm tin, ý thức tự nguyện, tự giác của các thành viên. Cho nên, để xây dựng được khối đại đoàn kết trước hết phải phát huy đến mức cao nhất ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân với quốc gia, dân tộc. (2) Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp trong đoàn kết, tập hợp nhân dân. Điểm mới lần này mở rộng chủ thể không chỉ các tổ chức chính trị - xã hội mà cả các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp. (3) Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thực hiện phát huy truyền thống, sức mạnh đoàn đoàn kết toàn dân tộc. (4) Xây dựng và triển khai chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2030, tầm nhìn 2045[6].
Một số kiến nghị về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong Dự thảo văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng
Những nội dung nêu trên là khá toàn diện, phản ánh được yêu cầu, nội dung, phương thức của xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, để phát huy tốt hơn khối đại đoàn kết, dự thảo cần quan tâm thêm một số điểm sau:
Một là, cần bổ sung mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay không có mục đích tự thân, cũng không phải vì mục đích, lợi ích của riêng một chủ thể nào. Đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp các dân tộc, giai cấp, tầng lớp, thành phần, mọi cá nhân trọng cộng đồng Việt Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ sở của kiến nghị này: Các Đại hội trước đây cũng đã nêu mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc, tuy nhiên, điểm mới của dự thảo lần này là Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng (2026), dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do vậy, để đáp ứng được yêu cầu đó phải xác định rõ mục đích của đại đoàn kết toàn dân tộc. Dự thảo Báo cáo chính trị xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam hướng tới là “Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; hiện thực hoá tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”[7]. Do vậy, việc xác định mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc như trên là phù hợp với thực tế hiện nay, đồng bộ, thống nhất với các nội dung khác của dự thảo Văn kiện. Mục tiêu này cũng chính là điểm tương đồng để quy tụ, tập hợp tất cả các thành viên trong xã hội trong khối đại đoàn kết.
Hai là, kiến nghị bổ sung phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong bối cảnh chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cần bổ sung phương thức “xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc trên mọi môi trường, nền tảng”. Cụ thể, đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay không chỉ diễn ra trên môi trường kinh tế, chính trị - xã hội thực mà còn đoàn kết trên không gian mạng, môi trường số. Cơ sở của kiến nghị này là: (1) Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong dự thảo báo cáo chính trị, sự tác động của chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo đến kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đã được thể hiện tương đối rõ. Tuy nhiên, tác động đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc còn mờ nhạt. Hiện nay, Đảng Nhà nước ta đã xác định xây dựng “xã hội số”, “chính phủ số”, “công dân số”, “kinh tế số”, dự thảo cũng cần chú ý phát huy tính tích cực của môi trường số, trí tuệ nhân tạo trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (2) Thực tế cũng cho thấy, trong những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của đất nước gần đây, người Việt Nam trên toàn thế giới chỉ cần đồng loạt “thả tim”, nhấn biểu tượng “likes”, hoặc đồng loạt đặt avata hình cờ Tổ quốc... đã thể hiện rất sâu sắc tinh thần đoàn kết, lòng tự hào dân tộc. Đoàn kết trên không gian mạng, môi trường số đang là một hiện thực khách quan, có ý nghĩa to lớn cần được tiếp tục phát huy trong thời gian tới./.
