Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một trong những sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ XX, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vừa độc đáo, vừa điển hình trong thời đại ngày nay; là cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc và đế quốc, cuộc chiến giữa các lực lượng hòa bình, dân chủ chống các thế lực đế quốc hiếu chiến, phản động.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành được thắng lợi huy hoàng bởi nhiều yếu tố tổng hợp tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam.
Sớm nhận rõ bản chất đối phương, xây dựng quyết tâm toàn dân tộc chiến đấu và chiến thắng
Ngay trước khi Hiệp định Geneva được ký kết, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, Đảng đã nhận định: đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương.
Sau thời gian lãnh đạo đấu tranh giữ gìn lực lượng, Hội nghị Trung ương 15 (01/1959) chỉ rõ: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết 15 khóa II năm 1959 thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở miền Nam, tạo nên cao trào Đồng khởi long trời lở đất, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ đồng khởi sang tiến hành chiến tranh cách mạng.
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh, giương cao quan điểm thực tiễn, biết địch, biết ta, đánh giá đúng chỗ mạnh của địch để khắc phục, phát hiện trúng chỗ yếu của địch để khoét sâu, biết chuẩn bị đòn quyết định và tập trung giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi cuối cùng.
Những phương châm đã trở thành quen thuộc như: “hai chân, ba mũi, ba vùng”; bám thắt lưng Mỹ mà đánh; căng địch ra mà đánh, vây địch lại mà diệt; đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào; thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa; những địa danh Núi Thành, Ấp Bắc, Bến Tre, Khe Sanh, Củ Chi, đường 9, đường Hồ Chí Minh hoặc những sự kiện nổi bật: Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, Chiến dịch Hổ Chí Minh... không chỉ là khẩu hiệu, từ ngữ thuần túy, mà còn là sự chỉ đạo chiến lược, kết tinh cao độ trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam.
Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 (Ảnh tư liệu)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã vạch rõ vai trò, vị trí của cách mạng mỗi miền: “Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta… cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”[1].
Nhân dân Việt Nam, kể cả miền Bắc và miền Nam, đều chung một kẻ thù, một mục tiêu; sự nghiệp cách mạng vẫn do một đảng lãnh đạo, một nhân dân và một quân đội tiến hành. Trong phương thức chỉ đạo chiến lược đó, luôn luôn thường trực một ý chí: “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được”[2].
Thực tế đã chứng minh sự gắn bó của cách mạng hai miền đã tạo ra sức mạnh tổng hợp ngày càng to lớn, làm thay đổi cục diện chung ngày càng có lợi cho ta và tạo tiền đề không thể đảo ngược cho sự vận động tiếp theo của cách mạng Việt Nam sau chiến thắng 30/4/1975.
Nhờ có đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai qua năm đời tổng thống Mỹ, đánh bại đế quốc hùng mạnh nhất và hiếu chiến nhất, có tiềm lực kinh tế- quân sự khổng lồ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi cuối cùng.
Đường lối chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp
Hàng chục triệu nhân dân Việt Nam, không phân biệt trẻ, già, nam, nữ, đã cùng bước vào cuộc chiến đấu với ý chí sắt đá “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, huy động từng hạt gạo, manh áo, cây súng và cây bút... với phương châm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!” phát huy hiệu quả nhiều mũi giáp công, nhiều mặt trận chiến đấu; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại...
Đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao đã được phối họp thực hiện dưới sự lãnh đạo thông nhất của bộ thống soái tối cao.
Các lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức một cách độc đáo thành ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, cùng với các lực lượng khác tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Quân và dân ta không chỉ đồng khởi ở các vùng nông thôn mà còn xây dựng lực lượng, tổ chức phong trào đánh Mỹ, diệt ngụy ở cả các vùng rừng núi, đô thị, tạo ra thế cài răng lược vô cùng lợi hại trong cục diện chiến trường miền Nam. Tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ có các lực lượng “quy ước” thông thường mà còn là cả một dân tộc “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”, em nhỏ thành dũng sĩ, có đội quân tóc dài, đã viết nên biết bao chiến công hiển hách. Nhờ đường lối chiến tranh đúng đắn, sáng tạo ấy, quân và dân ta đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc và tay sai. Cũng vì lẽ đó, quân và dân Việt Nam đã được suy tôn là bậc thầy của nghệ thuật chiến tranh nhân dân, biết dùng nhỏ thắng lớn, lếy ít địch nhiều, biên yếu thành mạnh, thiên biến vạn hóa đẩy kẻ địch vào thế bị động chiến lược.
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng là sự kế thừa và phát huy truyền thống đấu tranh giữ nước và nghệ thuật quân sự của dân tộc với các tư tưởng chủ đạo là: lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lây chí nhân thay cường bạo; trăm họ là binh, toàn dân đánh giặc; lấy đoản binh chống trường trận; kết hợp nhuần nhuyễn lực, thế thời và mưu; kháng chiến toàn diện nhằm đạt tới cái sâu xa nhất là dập tắt muôn đời chiến tranh, đem lại thái bình muôn thuở.
Nhân dân Sài Gòn chào mừng ngày giải phóng (Ảnh tư liệu)
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Một nguyên tắc có tính nền tảng trong nhận thức và hành động của Đảng là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu này là một chỉnh thể thống nhất, trong đó độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hòa quyện hữu cơ với nhau, cái này là cơ sở đảm bảo cho cái kia được thực hiện thành công. Nhờ đường lối cách mạng sáng suốt đó, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một truyền thống xuyên suốt lịch sử dân tộc, là cội nguồn làm nên sức sống Việt Nam.
Những thế hệ chiến sĩ và đồng bào ta ở cả hai miền Nam - Bắc, nối bước nhau xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, vững tin ở tương lai về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thông qua nhiều hình thức, cách mạng đã tập họp đông đảo các tầng lóp xã hội rộng rãi trong Mặt trận thông nhất, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến và kiên quốc.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của quân và dân Việt Nam trong khói lửa chiến tranh chống Mỹ cũng đã trở thành lương tâm và khí phách của thời đại, được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ, viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; của phong trào cộng sản và công nhân quô'c tế; của phong trào giải phóng dân tộc; của các lực lượng đâù tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ cũng như của mọi người có lương tri trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ.
Quân và dân Việt Nam, bằng hành động và chiêh thắng của mình, đã chứng minh một chân lý trong thời đại ngày nay, đó là khả năng và nhu cầu kê't họp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vạch ra một con đường hiện thực cho nhân dân các dân tộc trên thê'giói đi đến độc lập, tự do và hạnh phúc chân chính nhất.
Nền ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
Đường lối ngoại giao vừa giữ vững độc lập, tự chủ; vừa thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo nhằm tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong bối cảnh quốc tế phức tạp, vừa có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, bất hòa, thậm chí có cả khuynh hướng thỏa hiệp vô nguyên tắc. Kẻ thù của chúng ta là tất cả các thế lực đế quốc, phản động, tay sai do đế quốc Mỹ đứng đầu, âm mưu xâm chiếm miền Nam Việt Nam, chia rẽ Bắc - Nam, chia rẽ phe xã hội chủ nghĩa.
Cuộc đọ sức giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lưọc trở thành cuộc đọ sức điển hình và vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đế quốc; giữa văn minh và bạo tàn... Để đánh bại ý chí xâm lược của một đối thủ giàu tiềm lực và sức mạnh như vậy, Đảng ta phải vừa biết giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối kháng chiến của mình; vừa tranh thủ sức mạnh của phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, của bè bạn năm châu, của cộng đổng quốc tế và của cả thời đại.
Gần năm mươi năm đã trôi qua, ý nghĩa lịch sử của chiến thắng 30/4/1975 ngày càng được khẳng định rõ nét. Đối với dân tộc Việt Nam, nó kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng oanh liệt, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đưa cả nước tiến lên giàu mạnh, văn minh.