Trong những ngày sôi sục khí thế cách mạng trước Cách mạng Tháng Tám, Quốc dân Đại hội tại Tuyên Quang từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945 đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh, xác lập những nguyên tắc nền tảng cho một quốc gia mới

Nội dung và giá trị lịch sử mười chính sách lớn của Việt Minh

Mười chính sách lớn của Việt Minh được thông qua tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào tháng 8/1945 trong thời khắc lịch sử mang giá trị vượt thời gian, có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng, định hình con đường phát triển của dân tộc Việt Nam cho đến tận ngày nay.

Mười chính sách Việt Minh cung cấp nền tảng lý luận và thực tiễn cho sự ra đời của một nhà nước kiểu mới - Nhà nước dân chủ cộng hòa. Trước Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam bị ách cai trị của thực dân, phong kiến, không được hưởng đầy đủ quyền con người, luôn khát khao một quốc gia độc lập, dân chủ. Mười chính sách Việt Minh đã cụ thể hóa khát vọng của toàn thể dân tộc thành một bản thiết kế chính trị - xã hội - kinh tế rõ ràng, tạo cơ sở cho việc hình thành một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

Chính sách thứ nhất, “Lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”[1], khẳng định mục tiêu thoát khỏi ách nô lệ; đồng thời, vạch ra con đường xây dựng một nhà nước tiến bộ, dựa trên các nguyên tắc dân chủ. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính là sự cụ thể hóa tinh thần dân chủ ấy. Hiến pháp 1946 đã ghi nhận các quyền tự do cơ bản của công dân, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện rõ tinh thần của chính sách thứ 5: “Ban bố những quyền cho nhân dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền”[2]. Đây là một bước nhảy vọt về thể chế chính trị, đưa Việt Nam từ một quốc gia thuộc địa trở thành một nhà nước độc lập, có chủ quyền.

Trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật sau này, tinh thần của Mười chính sách vẫn luôn là kim chỉ nam. Từ các đạo luật về dân chủ, bình đẳng, đến các quy định về quyền lợi công nhân, nông dân, quyền con người, hay các chính sách về văn hóa, giáo dục, đều có thể thấy bóng dáng những nguyên tắc cơ bản đã được vạch ra tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào.

Mười chính sách Việt Minh là “kim chỉ nam” cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, bảo vệ chính quyền cách mạng và công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. “Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”, là lời hiệu triệu thiêng liêng, hun đúc ý chí của toàn dân tộc, quyết tâm giành độc lập về tay nhân dân. Trong Mười chính sách Việt Minh thì có đến 6 chính sách về kinh tế - xã hội như: “Chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn nhân” (chính sách số 6) và “Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm” (chính sách số 7) đã khẳng định trên thực tế mối quan hệ khăng khít khối liên minh công nông vững chắc. Việc “Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng” (chính sách thứ 8) thể hiện tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc.

Di tích lịch sử Lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng) nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương tháng  5/1941 (Ảnh Báo Cao Bằng điện tử)

Chính sách “Võ trang nhân dân. Phát triển quân Giải phóng Việt Nam” (chính sách thứ 2) là một trong những chủ trương chiến lược mang tầm nhìn sâu rộng của Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính sách ngoại giao “Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ” (chính sách thứ 10), là một định hướng chiến lược, thể hiện rõ tư duy độc lập, tự chủ và tầm nhìn xa của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong việc xây dựng quan hệ quốc tế.

Giá trị lâu dài và quan trọng nhất của Mười chính sách Việt Minh là xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nhân tố then chốt làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mười chính sách đã giải quyết hài hòa lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc, mọi giới tính, tạo nên sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội. Đặc biệt là chính sách “Ban bố những quyền cho nhân dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền”[3] (chính sách thứ 5).

Song song với đó, trong chế độ mới, việc bình đẳng nam nữ được khẳng định. Đây là một bước tiến vượt bậc so với chế độ chính trị trước kia. Dưới chế độ phong kiến, phụ nữ bị coi nhẹ, chịu nhiều định kiến và bị tước đoạt quyền lợi. Chế độ mới đã giải phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc xã hội, mở ra cơ hội cho phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội, chính trị, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước.

Mười chính sách Việt Minh là kết tinh của tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học và sự sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mười chính sách của Việt Minh có ý nghĩa như một bản cương lĩnh toàn diện, bao gồm cả chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng và đối ngoại, khẳng định tầm nhìn chiến lược, sự nắm bắt sâu sắc quy luật phát triển của cách mạng và thực tiễn đất nước. Đảng và Bác Hồ không chỉ tập trung vào mục tiêu giành độc lập mà còn quan tâm đến việc xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp hơn cho nhân dân. Với tầm nhìn vượt ra ngoài những tư duy cục bộ, phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng con người.

Bên cạnh đó, việc triệu tập Quốc dân Đại hội và công bố Mười chính sách khẳng định sự nhạy bén chính trị của Đảng và Bác Hồ trong việc nắm bắt thời cơ. Chỉ một vài ngày sau Hội nghị, Nhật đầu hàng Đồng minh, tạo ra “thời cơ ngàn năm có một” để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Bài học cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay

Bài học về độc lập, tự chủ và tự cường: Mười chính sách đã thể hiện rõ tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ trương tự chủ trên tất cả các lĩnh vực. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bài học ấy vẫn giữ nguyên giá trị. Việt Nam muốn phát triển bền vững cần phát huy toàn diện nội lực, xây dựng một nền kinh tế tự chủ, chủ động ứng phó trước biến động toàn cầu không chỉ là chiến lược phát triển, mà còn là phương thức bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc: Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc là điểm sáng trong sự nghiệp cách mạng. Mặt trận Việt Minh là minh chứng sống động khi quy tụ mọi tầng lớp vào một liên minh chính trị - xã hội rộng lớn. Ngày nay, việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự đồng thuận xã hội là động lực mang tính chiến lược trong giai đoạn phát triển hiện nay.

Bài học về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân: Mười chính sách của Việt Minh đã thể hiện khát vọng về một chính quyền dân chủ. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nội dung trung tâm của công cuộc đổi mới, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng dân chủ, pháp quyền đề ra cách đây 80 năm.

Truyền đơn cổ động mười chính sách lớn của Việt Minh được Quốc dân Đại hội Tân Trào thông qua

Bài học về tầm quan trọng của văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ: Ngay từ khi chưa giành được chính quyền, Việt Minh đã đặt ra nhiệm vụ xóa nạn mù chữ, xây dựng nền văn hóa dân tộc độc lập. Đặc biệt, trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc đầu tư vào giáo dục, đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển bền vững.

Bài học về chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị: Ngay từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, Đảng đã xác định làm bạn với tất cả các nước dân chủ. Trong thời đại ngày nay, bài học ấy càng mang tính thời sự và chiến lược. Việt Nam càng phải kiên định lập trường đối ngoại hòa bình, lấy đối thoại thay cho đối đầu, xây dựng hình ảnh Việt Nam là một đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng: Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ hiện nay, bối cảnh quốc tế và trong nước đặt ra nhiều thách thức mới, Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Mười chính sách lớn của Việt Minh là một văn kiện lịch sử mang tính thời đại - là một di sản tư tưởng vô giá, có giá trị lâu dài và ý nghĩa sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những bài học về độc lập, tự chủ, đại đoàn kết, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, và chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo những giá trị và bài học từ Mười chính sách Việt Minh càng trở nên cấp thiết.

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 559.

[2] Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr. 559-560.