Trong những ngày đầu sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam đã trở thành nước tự do, độc lập nhưng chưa có Quốc hội, chưa có Hiến pháp, luật… nên Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của đất nước. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh trao quyền ký nhiều Sắc lệnh quan trọng

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã có bài diễn văn quan trọng nêu rõ tầm vóc lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những vấn đề cấp bách cần giải quyết của Chính phủ cách mạng lâm thời[1].

Bài diễn văn nêu rõ 8 vấn đề cấp bách của Chính phủ cách mạng lâm thời. Diễn văn nhấn mạnh: “…chỉ nay mai Chính phủ lâm thời sẽ ra sắc lệnh triệu tập Quốc hội theo nguyên tắc dân chủ. Các đại biểu của Quốc hội đều do dân bầu theo lối phổ thông đầu phiếu. Quốc hội sẽ đem lại cho chúng ta một Hiến pháp và một Chính phủ chính thức”. Ngoài ra, Bộ Nội vụ có trách nhiệm nghiên cứu xây dựng, kiện toàn hệ thống chính quyền nhà nước các cấp từ trung ương đến địa phương.

Ngày 04/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh số 04-SL về việc lập Quỹ Độc lập. Việc thành lập Quỹ Độc lập để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng đóng góp giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập quốc gia. “Việc tổ chức sẽ đặt dưới quyền kiểm soát của Bộ tài chính[2].

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, ngày 02/9/1945 (Ảnh tư liệu)

Ngày 05/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh số 05-SL về việc ấn định Quốc kỳ Việt Nam. Theo Sắc lệnh, cờ quẻ Ly bị bãi bỏ. “Quốc kỳ Việt Nam hình chữ nhật, bề ngang bằng hai phần ba bề dài, nền màu đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.

Sắc lệnh số 7-SL, ngày 5/9/1945 về buôn bán và chuyên chở thóc gạo. Sau khi giành được chính quyền, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn bởi nạn đói hoành hành khắp đất nước, nhằm góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn trong việc vận chuyển, buôn bán thóc gạo, chống lại nạn đầu cơ, tích trữ lương thực, Nhờ Sắc lệnh số 07-SL mà việc buôn bán, chuyên chở thóc gạo ở Bắc Bộ hoàn toàn được tự do, Chính phủ cần thóc gạo sẽ mua thẳng của tư gia; còn đối với những người có hành vi đầu cơ, tích trữ gạo mà làm ảnh hưởng đến nền kinh tế thì sẽ bị nghiêm phạt theo luật và bị tịch thu gia sản. Đây là việc làm thiết thực, kịp thời của Chính phủ, phản ánh sinh động một thực tế rằng, nền hành chính dân chủ non trẻ buổi đầu ấy đã luôn biết đặt lợi ích, nhu cầu của người dân Việt Nam lên trên hết, bắt đầu từ những điều dung dị nhất là cơm ăn, áo mặc.

Sắc lệnh số 08-SL, ngày 05/9/1945 về việc giải tán Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng. Theo Sắc lệnh, “Đại Việt quốc gia xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam và Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam; Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị”.

Sắc lệnh số 11-SL, ngày 07/9/1945 bãi bỏ thuế thân và việc thay đổi chế độ thuế khóa hiện hành. Theo Sắc lệnh, “cải cách chế độ thuế khóa để đỡ gánh nặng cho dân chúng và phù hợp với công lý”. Thuế thân là một thứ thuế vô cùng trái ngược, vô lý với chính thể tinh thần thể chế cộng hòa dân chủ. Trong thời kỳ Pháp thuộc, thuế thân là nỗi kinh hoàng đối với người nông dân nghèo. Việc bãi bỏ thuế thân đã củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền cách mạng.

Sắc lệnh số 14-SL, ngày 8/9/1945 về ấn định thời hạn và thể lệ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc dân Đại hội. Sắc lệnh chỉ rõ: “Trong một thời hạn hai tháng kể từ ngày ký sắc lệnh này sẽ mở cuộc. Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội; Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường; Số đại biểu của Quốc dân đại hội ấn định là 300 người; Quốc dân đại hội sẽ có toàn quyền ấn định Hiến pháp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; Một Uỷ ban để dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử sẽ thành lập; Để dự thảo một bản hiến pháp đệ trình Quốc hội, một Uỷ ban khởi thảo hiến pháp 7 người sẽ thành lập; Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền phụ trách thi hành sắc lệnh này”[3].

Trong thời hạn 2 tháng sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội; tất cả công dân Việt Nam đều có quyền tuyển cử và ứng cử; số đại biểu của Quốc dân Đại hội là 300 người; Quốc dân Đại hội có toàn quyền ấn định Hiến Pháp cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; sẽ thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; sau đó thành lập Ủy ban Hiến pháp.

Sắc lệnh số 16-SL, ngày 08/9/1945 về việc đặt ngạch Thanh tra học vụ. Mục đích là để kiểm soát việc học tập theo đúng chương trình giáo dục của Chính phủ, đảm bảo chất lượng và thống nhất trong ngành giáo dục.

Sắc lệnh số 17-SL, Sắc lệnh số 19-SL Sắc lệnh số 20-SL, ngày 08/9/1945 về công tác giáo dục. Nhận thức rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở một chiến dịch chống nạn mù chữ. Vì thế, Người trao cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký ban hành 3 Sắc lệnh quan trọng về giáo dục11. Đó là, Sắc lệnh số 17-SL, Sắc lệnh số 19-SL và Sắc lệnh số 20-SL, ngày 08/9/1945.

Ông Võ Nguyên Giáp, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh tư liệu)

Sắc lệnh số 17-SL thành lập Nha Bình dân học vụ trực thuộc Bộ Giáo dục với nhiệm vụ phụ trách việc chống nạn mù chữ; Sắc lệnh số 19/SL yêu cầu thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Điều này cho thấy Chính phủ đã rất quan tâm và tạo điều kiện học tập cho đội ngũ nông dân, công nhân – vốn là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ với số lượng đông đảo nhưng trình độ còn nhiều hạn chế do chịu hậu quả từ chính sách ngu dân của thực dân Pháp.

Sắc lệnh số 20-SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ, không mất tiền. Hạn 1 năm tất cả mọi người dân Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, nếu không sẽ bị phạt tiền. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, quả thực không thể không dùng biện pháp “cưỡng bách” bởi vì bên cạnh những người ham học, muốn biết chữ thì cũng còn không ít người, trong đó đa số là người lớn tuổi có tâm lý e ngại, xấu hổ nên không muốn đi học. Có thể nói những chủ trương này táo bạo, quyết liệt nhưng cũng rất đúng đắn và sáng tạo. Kết quả của phong trào Bình dân học vụ vượt trên cả sự mong đợi. Chỉ trong một năm (8/1945 – 8/1946), phong trào Bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm (đến ngày 30/6/1950), gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ[4].

Sắc lệnh số 30-SL, ngày 12/9/1945 về việc giải tán tổ chức Việt Nam hưng quốc Thanh niên hội và Việt Nam Thanh niên ái quốc hội. Theo Sắc lệnh, hai tổ chức này có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam. Các hội viên của 2 tổ chức này bị cấm hội họp và hoạt động chính trị”

Sắc lệnh 32-SL, ngày 12/9/1945 SL về việc bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Theo Sắc lệnh, “những viên chức trong hai ngạch hành chính và tư pháp theo chế độ cũ sẽ thôi việc. Những người có năng lực, hạnh kiểm tốt sẽ được bổ dụng vào những ngạch khác”.

Tổng cộng, trong 3 tháng cuối năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền ký ban hành gần 30 sắc lệnh trên các lĩnh vực. 

Như vậy, trong một thời gian không dài sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao quyền ký nhiều Sắc lệnh quan trọng, góp phần to lớn vào việc củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức lại bộ máy nhà nước, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh và phát triển giáo dục, văn hóa, tạo nền tảng cho thắng lợi của các cuộc kháng chiến sau này.

Trong bối cảnh đất nước vừa giành độc lập, đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức từ thù trong giặc ngoài, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh trao quyền ký các sắc lệnh cho ông Võ Nguyên Giáp thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào năng lực và vai trò của ông trong việc chèo lái đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của Nhà nước non trẻ.

 

[1]. Diễn văn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tại Lễ Độc lập 02/9/1945. http://hovuvovietnam.com, ngày 05/7/2021.

[2]. Biên niên sử Bộ Nội vụ (1945 – 2005), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007. tr.29

[3]. Hệ thống “sắc lệnh” – nguồn luật chủ yếu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giai đoạn 1945 – 1946. http://nhandan.vn, ngày 05/4/2017.

[4]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ký sắc lệnh về bình dân học vụ. http://moha.gov.vn, ngày 30/7/2015