Trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trải qua quá trình hình thành và phát triển từ những đội quân tiền thân nhỏ bé, được tôi luyện, trưởng thành qua cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ

Các đội tự vệ công nông

Đầu năm 1930, trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế và chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và chính quyền thực dân, phong kiến ngày càng gay gắt. Các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân đã diễn ra sôi nổi.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các đội tự vệ công nông lần lượt ra đời tại các xí nghiệp, đồn điền, làng xã. Đây là những lực lượng nòng cốt, hỗ trợ và bảo vệ quần chúng nhân dân trong đấu tranh.

Ở Nam Kỳ, đội tự vệ công nông đầu tiên ra đời, mở đầu phong trào cách mạng trên cả nước là đội tự vệ công nhân của đồn điền cao su Phú Riềng (Biên Hòa) với khoảng 40 thành viên, đã trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh của chi bộ Đảng Phú Riềng trong sự kiện Phú Riềng đỏ năm 1930.

Tại Bắc Kỳ, các đội tự vệ công nông đầu tiên ra đời trong cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định. Trong cuộc đấu tranh kéo dài 3 tuần đầu năm 1930, đội tự vệ nhà máy dệt Nam Định đã góp phần bảo vệ quần chúng trước chính sách khủng bố của giới chủ, góp phần vào thành công nhất định cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy.

Tại Trung Kỳ, các đội tự vệ công nông ra đời trong cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh. Trước cuộc đấu tranh ngày càng lan rộng của công nhân, nông dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chính quyền thuộc địa tập trung lực lượng lớn binh lính để đàn áp phong trào.

Trước tình hình đó, Đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh chủ trương thành lập các đội tự vệ để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng công nông. Tháng 6/1930, Đội tự vệ Ba Xã (Hậu Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) được thành lập, sau lan rộng ra các thôn xã trong huyện với mỗi thôn từ 10-30 đội viên.

Những tháng cuối năm 1930, cùng với sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng, các đội tự vệ công nông được thành lập ngày càng rộng khắp, trở thành lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh làm rung chuyển bộ máy thống trị của thực dân, phong kiến ở Trung Kỳ.

Các đội tự vệ công nông được xem là những mầm mống đầu tiên, tạo tiền đề cho việc thành lập các đội du kích và tự vệ chiến đấu sau này.

Lê thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, 22/12/1944 (Ảnh tư liệu dựng lại)

Đội du kích Bắc Sơn và quân du kích Nam Kỳ

Đêm 27/9/1940, sau khi Nhật đánh chiếm Lạng Sơn và quân Pháp rút chạy, quần chúng nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy khởi nghĩa, tấn công đồn Mỏ Nhài, giải phóng châu lỵ.

Đến cuối tháng 10/1940, lực lượng du kích Bắc Sơn từ 20 người đã phát triển lên đến 200 với vũ khí khoảng 20 khẩu súng trường và 100 súng kíp[1].

Sau khi thực dân Pháp tăng cường đàn áp khốc liệt, lực lượng du kích Bắc Sơn phải rút vào rừng để bảo toàn lực lượng và chấn chính tổ chức.

Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1940 quyết định duy trì và phát triển đội du kích Bắc Sơn. Thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng, ngày 14/2/1941, Đội du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập tại Lạng Sơn. Đội gồm có 32 đội viên, chia làm 3 tiểu đội, do đồng chí Lương Văn Trị làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Chu Văn Tấn làm Chỉ huy phó. Vũ khí của đội có 5 khẩu súng trường và một số súng kíp cũng các loại vũ khí thô sơ khác. Đội du kích Bắc Sơn trở thành lực lượng nòng cốt để xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn-Võ Nhai. Trong những năm 1941-1942, quân du kích Bắc Sơn đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để tồn tại và chiến đấu. Quaandu kích Bắc Sơn, đơn vị vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo, đồng thời cũng là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, tồn tại và phát triển, sau này được tổ chức thành lực lượng Cứu quốc quân.

Tiếp đó, vào tháng 7 năm 1940, tại Nam Kỳ, các đội du kích cũng được tổ chức và phát triển mạnh mẽ. Đến trước ngày khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, 18/21 tỉnh thành ở Nam Kỳ đã xây dựng được đội du kích, có đội lên đến 100 người. Vũ khí được trang bị chủ yếu là vũ khí thô sơ[2].

Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước bị giết hại, hàng nghìn người bị bắt giam. Các đội du kích của các tỉnh phải rút sâu về các căn cứ, nhưng vẫn duy trì hoạt động và chờ thời cơ thuận lợi để đẩy mạnh đấu tranh giành chính quyền ở địa phương.

Sau Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941, Cứu quốc quân được thành lập, bao gồm Trung đội Cứu quốc quân 1 gồm 37 đồng chí (02/1941), Cứu quốc quân 2 gồm 47 đồng chí (Tháng 9/1941) và Cứu quốc quân 3 gồm 30 đồng chí (02/1944).

Lực lượng Cứu quốc quân là một trong những đội vũ trang đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo trong giai đoạn 1941-1945, đóng góp kinh nghiệm quý báu cho sự hình thành của Quân đội ta.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

Vào lúc 17 giờ ngày 22/12/1944, tại một khu rừng thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập. Đây là đội quân chủ lực đầu tiên, là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có 34 đội viên, trong đó có 4 người dân tộc Kinh, 20 người dân tộc Tày, 8 người dân tộc Nùng, 1 người dân tộc Mông, 1 người dân tộc Dao Tiền; có 28 người quê ở Cao Bằng, 2 người quê ở Quảng Bình, 1 người quê ở Lạng Sơn, 2 người quê ở Thái Nguyên, 1 người quê ở Thái Bình, và hoàn toàn là nam giới. 34 đội viên là những đồng chí trung kiên nhất của các đội vũ trang Cao-Bắc-Lạng, một số trong đội quân Nam tiến, một số trong Cứu quốc quân, có người đã đi học quân sự ở nước ngoài về.

Đội do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy chung, với nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa tuyên truyền, vận động quần chúng.

Đội trưởng của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đồng chí Hoàng Sâm, chính trị viên là đồng chí Xích Thắng. Đội có 1 chi bộ Đảng, gồm 4 đồng chí làm hạt nhân lãnh đạo.

Vũ khí trang bị cho Đội có 2 súng thất cửu, 17 súng trường, 14 súng kíp. Hai ngày trước lễ thành lập có một số vũ khí gồm 1 súng tiểu liên thanh do Mỹ sản xuất, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp nổ do ông bà Tống Minh Phương và anh em Việt kiều ở Côn Minh gửi tặng. Đội có 500 đồng chi phí quân nhu.

Số lượng đội viên tuy ít, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, nhưng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân- đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam là: “một đoàn quân gang thép, rắn chắc không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù”[3] .

Chiến thắng đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tại hai trận Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944) là những chiến công tiêu biểu cho sức mạnh mưu trí và tinh thần quả cảm của đội quân chính quy đầu tiên của cách mạng Việt Nam.

Lực lượng cứu quốc quân tại Bắc Sơn, Lạng Sơn (Ảnh tư liệu - TTXVN)

Việt Nam Giải Phóng quân

Ngày 15/4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân, đổi tên thành Việt Nam Giải phóng quân.

Lễ hợp nhất được tổ chức vào ngày 15/5/1945 tại Định Biên Thượng (Định Hóa, Thái Nguyên), đánh dấu sự ra đời lực lượng quân sự chủ lực của Việt Minh.

Tham dự buổi lễ thống nhất có lực lượng của Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân từ Cao Bằng xuống, lực lượng Cứu quốc quân 2 do Chu Văn Tấn phụ trách từ Bắc Sơn - Võ Nhai _ Đại Từ lên và lực lượng Cứu quốc quân 3 do các đồng chí Song Hào. Tạ Xuân Thu phụ trách từ Tuyên Quang Sang. Tại buổi lễ, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thống nhất các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân, đội quân chủ lực của cách mạng, do Đảng lãnh đạo.

Việt Nam Giải phóng quân là bộ đội chủ lực của cả nước, có chỉ huy thống nhất và hệ thống tổ chức chặt chẽ. Bộ Tư lệnh của Việt Nam Giải phóng quân gồm các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh và Chu Văn Tấn.

Cán bộ chỉ huy các đơn vị của Việt Nam Giải phóng quân hầu hết là những đội viên của Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân, trưởng thành lên, đó là những cán bộ kiên quyết cách mạng, có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu và lãnh đạo phát động chiến tranh du kích.

Những đội viên mới bổ sung vào Việt Nam giải phóng quân phần lớn là nông dân, du kích, tự vệ được lựa chọn từ cơ sở cách mạng, ít nhiều đã trải qua chiến đấu.

Về tổ chức biên chế, Việt Nam Giải phóng quân gồm 13 đại đội, được tổ chức thống nhất từ tiểu đội, trung đội lên đến đại đội, mỗi tiểu đội 12 người, 3 tiểu đội thành một trung đội, 3 trung đội thành một đại đội.

Về vũ khí trang bị, Việt Nam Giải phóng quân có hàng nghìn khẩu súng các loại, trong đó có súng máy, súng cối 60 mm, hàng chục tấn đạn thu được của địch và có một số xưởng sửa chữa, chế tạo vũ khí thô sơ[4].

Cũng như các lực lượng quân sự trước đây, Việt Nam Giải phóng quân hết sức quan tâm đến công tác chính trị tư tưởng, công tác xây dựng Đảng và vấn đề đoàn kết nội bộ, cũng như công tác dân vận, đó là những yêu cầu đối với người chiến sĩ Việt Nam Giải phóng quân trong bối cảnh lực lượng vũ trang là nòng cốt cho cuộc đấu tranh cách mạng giành chính quyền.

Như vậy, đến tháng 5/1945, các đội quân tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thống nhất trong Việt Nam Giải phóng quân và lực lượng này đã đóng góp vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

 

[3] Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.136.

[4] Bộ Quốc phòng -Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử các đội quân tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam,Sđd, tr, 320.