Chiến đấu chống chiến tranh phong tỏa đường biển của Mỹ

Từ năm 1965, sau khi trực tiếp đưa quân vào miền Nam Việt Nam, Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn miền Bắc bằng chiến dịch “Chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân”. Một trong các mục tiêu trọng yếu là phong tỏa đường biển nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế hậu cần từ miền Bắc ra tiền tuyến. Từ năm 1966, Mỹ thực hiện chiến lược “cô lập miền Bắc về mặt giao thông vận tải”, trong đó có kế hoạch sử dụng hải quân và không quân phong tỏa cảng biển, cửa sông, luồng lạch, đặc biệt là các khu vực: Hải Phòng, Sông Gianh (Quảng Bình), Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa),... “Mỹ từng bước xiết chặt vòng vây trên biển, sử dụng tàu khu trục, tàu sân bay, máy bay trinh sát... phong tỏa luồng hàng hải và tấn công các tàu thuyền ra vào cảng biển miền Bắc” [1]. “Mục tiêu của Mỹ là cô lập hoàn toàn miền Bắc, chặt đứt nguồn viện trợ quốc tế và chi viện từ hậu phương” [2].

Tháng 4/1966, Mỹ tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng và bắt đầu dùng máy bay ném bom, rải thủy lôi, sử dụng tàu chiến để tuần tra ngăn tàu ra vào. Tháng 5/1972, thực hiện Chiến dịch Linebacker, Mỹ thả hơn 11.000 quả thủy lôi xuống sông, biển miền Bắc, trong đó riêng cảng Hải Phòng có tới 3.000 quả, biến vùng biển thành bãi mìn khổng lồ. Các hình thức phong tỏa của Mỹ là: Rải thủy lôi từ xa (mining): dùng máy bay thả các loại mìn từ trường, âm thanh, áp suất ở cửa sông, vịnh biển; phong tỏa vũ trang (blockade): tàu chiến tuần tiễu, sẵn sàng bắn phá các tàu vận tải hoặc dân sự ra vào khu vực bị cấm; tác chiến điện tử: gây nhiễu sóng, theo dõi vô tuyến, kết hợp chiến tranh tâm lý để làm mất tinh thần người dân và thủy thủ miền Bắc. “Cuộc phong tỏa năm 1972 là đợt tập trung hỏa lực và khí tài chống vận tải biển lớn nhất của Mỹ kể từ Thế chiến II”[3].

Một tàu tham gia rà phá bom mìn của Hải quân Việt Nam ở Hải Phòng, năm 1972 (Ảnh tư liệu)

Để đối phó với cuộc phong tỏa khốc liệt, Quân chủng Hải quân Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, kết hợp: Rà phá thủy lôi, mở luồng tiếp tế: Đội công binh - đặc công nước sử dụng tàu gỗ, thuyền nhỏ tiếp cận mìn từ trường để “dụ nổ” [4]; lực lượng đặc biệt phát triển thiết bị phá mìn tự chế: rào thép, phao nổi để kích hoạt mìn áp suất. Kết quả: Trong 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7/1972), đã vô hiệu hóa hơn 3.000 quả thủy lôi tại Hải Phòng, Sông Gianh, Cửa Hội[5].

Tổ chức vận tải ngầm - “tàu không số”: Dùng tàu gỗ cải trang thành tàu cá, tàu buôn, không phát tín hiệu vô tuyến, đi ban đêm. Tuyến vận tải chia làm 5 nhánh chính, luồn qua các cửa biển nhỏ, bãi bồi ven bờ để tránh radar. Mỗi chuyến tàu đều có đội hải hành tinh nhuệ: thuyền trưởng, hoa tiêu, tình báo ven biển.

Đánh trả khi bị tấn công: Thành lập tiểu đoàn tàu lẻ (tàu pháo, tàu phóng lôi nhỏ) bám sát tuyến vận tải, sẵn sàng yểm trợ bằng hỏa lực[6]. Phối hợp với pháo bờ biển và phòng không để bắn hạ máy bay trinh sát, tàu tuần tra. Kết quả: Tháng 7/1972, trong trận Sông Gianh, đặc công nước phá nổ 120 quả mìn, mở được luồng cho 12 tàu hàng; năm 1968, trận phá tàu tuần tra Mỹ tại Cửa Hội, tàu pháo K11 bắn chìm 01 tàu PC-461, làm 5 thủy thủ Mỹ thương vong; trong hai năm 1970-1971, Chiến dịch “Khóa lưới” ở Cửa Lò, pháo bờ biển và tàu phóng lôi chặn đứng 3 đợt tuần tra, bảo vệ an toàn cho 27 chuyến “tàu không số”.

Với những thắng lợi của cuộc chiến chống phong tỏa đường biển, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã phá vỡ âm mưu “bóp nghẹt” hậu phương: Mỹ không thể cô lập hoàn toàn miền Bắc, buộc phải chia lực lượng phong tỏa. Thể hiện năng lực sáng tạo: Kỹ thuật phá mìn và du kích biển trở thành bài học quý trong nghệ thuật tác chiến hiện đại. “Chiến đấu chống phong tỏa đường biển là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần chiến tranh nhân dân trên biển của Việt Nam” [7].

Đánh trả tàu chiến, máy bay Mỹ, bảo vệ vùng biển Tổ quốc

Từ giữa năm 1964, đặc biệt sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (5/8/1964), Mỹ lấy cớ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Các tàu khu trục, tàu tuần tra, tàu sân bay Mỹ được điều động vào vùng biển Vịnh Bắc Bộ để: Phá hoại các cảng biển, tuyến vận tải đường biển của ta; Yểm trợ đổ bộ biệt kích và đánh phá ven bờ; Phô trương sức mạnh hải quân và áp đặt thế uy hiếp toàn tuyến ven biển miền Bắc. “Từ giữa năm 1965, vùng biển Việt Nam không chỉ là mặt trận hậu cần mà trở thành chiến trường trực diện với hải quân Mỹ” [8].

Để ứng phó với âm mưu của đế quốc Mỹ, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã xây dựng thế trận phòng thủ biển. Tổ chức lực lượng chiến đấu: Thành lập các đơn vị tàu phóng lôi, tàu pháo, tàu tuần tiễu thuộc Lữ đoàn 171 và Lữ đoàn 172 Hải quân. Bố trí pháo bờ biển tại các điểm trọng yếu như Đồ Sơn, Cửa Hội, Sông Gianh, Cửa Tùng. Huy động lực lượng dân quân biển, ngư dân tham gia báo tin, cảnh giới, tiếp tế; Chiến thuật tác chiến linh hoạt: Phối hợp biển - bờ, khi phát hiện tàu Mỹ, pháo bờ nổ súng yểm trợ cho tàu chiến nhỏ tiếp cận đánh gần. Tập kích bất ngờ bằng cách sử dụng tàu phóng lôi nhỏ, cơ động cao, luồn lách qua các khe đảo, ven bờ tiếp cận tàu địch; Gài mìn ven biển tại các cửa sông và vũng kín như Vũng Áng, Hòn Gai, ta bố trí mìn tự chế nhằm ngăn địch đổ bộ.

Hai quan Viet Nam anh 4

Tàu chiến đấu Hải quân nhân dân Việt Nam đánh trả máy bay Mỹ tại Lạch Trường, Thanh Hóa ngày 05/8/1964 (Ảnh tư liệu Cục Chính trị Hải quân)

Những trận đánh tiêu biểu của Hải quân Nhân dân Việt Nam:

Trận Cửa Hội - Nghệ An (5/1965): Đây là một trong những trận đánh sớm và tiêu biểu trong giai đoạn đầu Hải quân Nhân dân Việt Nam trực tiếp đối đầu với tàu chiến Mỹ. Vào tháng 5/1965, một tàu khu trục của Hải quân Mỹ, được cho là thuộc lớp Forrest Sherman, tiến vào vùng biển Cửa Hội - Nghệ An để trinh sát và uy hiếp khu vực ven bờ. Nhận được tin báo từ lực lượng cảnh giới ngư dân và radar bờ biển, Bộ Tư lệnh Hải quân đã lệnh cho một đội hình gồm ba tàu phóng lôi cơ động xuất phát từ Lữ đoàn 172 tiếp cận mục tiêu. Lực lượng pháo bờ biển phối hợp với đội tàu chiến đấu đã nổ súng chính xác, khiến tàu Mỹ trúng đạn ở phần boong và buộc phải rút lui ra ngoài tầm bắn. Trận đánh tuy ngắn nhưng thể hiện sự chủ động, tinh thần quả cảm và năng lực hiệp đồng giữa các đơn vị hải - lục phối hợp. “Trận đánh tại Cửa Hội không chỉ có ý nghĩa chiến thuật mà còn là thông điệp rõ ràng gửi tới Mỹ: Biển Đông không phải vùng biển trống để muốn vào là vào” [9].

Trận sông Gianh - Quảng Bình (8/1967): Vùng cửa sông Gianh là một trong những điểm chiến lược trong tuyến vận tải ven biển từ Bắc vào Nam. Biết được vai trò quan trọng của nơi này, Hải quân Mỹ liên tục cử tàu chiến vào thăm dò và gây sức ép. Ngày 12/8/1967, hai tàu hộ tống hạm của Mỹ xuất hiện tại khu vực cửa sông Gianh và có dấu hiệu áp sát bờ để phá hoại cơ sở hậu cần. Lập tức, tàu pháo của ta từ đơn vị K31 cùng lực lượng pháo bờ biển và dân quân biển đã tổ chức đội hình tấn công theo phương thức “đa hướng áp sát - bắn tỉa nhanh - rút gọn”. Một tàu chiến Mỹ bị trúng đạn pháo vào hầm máy, bốc cháy phần đuôi, phải gọi lực lượng cứu hộ đến ứng cứu. Sau đó, cả hai tàu rút lui khỏi khu vực.

Trận Hòn Mê - Thanh Hóa (11/1970): Hòn Mê là một hòn đảo tiền tiêu thuộc tỉnh Thanh Hóa, giữ vai trò là điểm quan sát và radar cảnh giới ven biển quan trọng của ta. Từ giữa năm 1970, Mỹ nhiều lần cho tàu chiến và máy bay ném bom tấn công khu vực này nhằm triệt hạ cơ sở quân sự và phá hoại tuyến vận tải biển. Ngày 3/11/1970, một cụm tàu chiến Mỹ gồm 2 tàu khu trục và 1 tàu hộ tống áp sát đảo. Tuy nhiên, nhờ chuẩn bị từ trước, lực lượng pháo bờ biển trên đảo và đặc công nước đã bất ngờ khai hỏa khi tàu địch vào tầm bắn. Một tàu Mỹ bị trúng pháo, nghiêng về một bên và phải rút lui khẩn cấp. Các chiến sĩ đặc công đã tiếp cận dưới nước, đặt mìn hẹn giờ vào mạn tàu, gây thêm thiệt hại. “Trận Hòn Mê là đỉnh cao của nghệ thuật phòng thủ đảo nhỏ - đánh nhanh, bất ngờ, chính xác và rút an toàn” [10].

Các đợt đánh trả ở Đồ Sơn - Hải Phòng (1972–1973): Sau khi Mỹ thực hiện Chiến dịch rải mìn phong tỏa cảng Hải Phòng (5/1972), các tàu chiến Mỹ thường xuyên tuần tra, yểm trợ từ xa và uy hiếp khu vực cửa biển Đồ Sơn. Lực lượng Hải quân ta đã nhiều lần tổ chức pháo kích phản công từ pháo bờ, đồng thời huy động tàu pháo nhỏ hoạt động luồn lách trong các vùng nước cạn để gây rối, đánh tiêu hao tàu địch. Một số tàu Mỹ bị phá hỏng radar và thiết bị cảnh giới. Từ cuối năm 1972, hoạt động tuần tra của Mỹ tại khu vực này giảm hẳn do thiệt hại và sức ép từ phòng thủ của ta. “Không nơi nào Mỹ đối mặt với hệ thống phòng thủ liên hoàn như ở ven biển Đồ Sơn – Hải Phòng, nơi Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa bảo vệ đầu mối hậu cần lớn nhất miền Bắc” [11].

Hải quân Nhân dân Việt Nam đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ đánh trả tàu chiến, máy bay Mỹ và bảo vệ vùng biển Tổ quốc. Trong giai đoạn 1965-1973, có hơn 10 tàu chiến Mỹ bị trúng đạn pháo hoặc mìn, trong đó có 3 chiếc hư hại nặng; bảo vệ thành công chủ quyền vùng biển, không một đảo hoặc cảng lớn nào của ta rơi vào tay địch; củng cố thế trận phòng thủ biển, tạo tiền đề cho sự phát triển của lực lượng hải quân hiện đại sau này.

Chiến tranh đã lùi xa nhiều thập kỷ, nhưng những chiến công hào hùng của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam trong nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hậu phương miền Bắc, chi viện tiền tuyến miền Nam giai đoạn 1954–1973 vẫn luôn là mốc son chói lọi trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn – đối đầu với một trong những lực lượng hải quân và không quân mạnh nhất thế giới, quân dân ta vẫn kiên cường trụ vững, mưu trí chiến đấu, bảo vệ vững chắc từng hòn đảo, từng tấc biển và vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc.

 

[1] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.210.

[2] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.210.

[3] Nguyễn Đức Tâm Không quân, hải quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.134.

[4] Trần Đức: Tàu không số – Huyền thoại một con đường, Sđd, tr.115.

[5] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.312.

[6] Phạm Văn Đồng: Hải quân Nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.198.

[7] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.273.

[8] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955–2005), Sđd, tr.230.

[9] Phạm Văn Đồng: Hải quân Nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, Sđd, tr.187.

[10] Trần Đức: Tàu không số – Huyền thoại một con đường Sđd, tr.139-140.

[11] Nguyễn Đức Tâm: Không quân, hải quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, Sđd, tr.130.