Trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 nổi lên trí tuệ thiên tài của Hồ Chí Minh với những dự báo khoa học, tiên đoán cách mạng đã được thể hiện trong mọi hành động cụ thể, nhạy bén và hiệu quả. Trong những sự kiện nổi bật của lịch sử vào thời điểm tháng 8/1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào có một tầm vóc và ý nghĩa hết sức to lớn

Dự đoán thời cơ “ngàn năm có một”

Trở lại thời điểm lịch sử vào cuối năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra. Từ đây, cách mạng thế giới và Việt Nam có những bước chuyển biến mau lẹ. Đây cũng là thời điểm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bắt đầu cuộc hành trình trở về Tổ quốc.

Đến đầu năm 1941, Người mới về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thư Kính cáo đồng bào (6/1941), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ cơ hội giải phóng cho dân tộc ta đến rồi và kêu gọi “Toàn dân đoàn kết[1], đồng tâm hiệp lực đánh đổ Pháp, Nhật giành độc lập, tự do.

Trên cơ sở theo dõi, nghiên cứu kỹ tình hình cuộc chiến tranh đang bước vào giai đoạn cuối, phe phát xít gần đến ngày bị tiêu diệt. Phe đồng minh sắp tranh được thắng lợi cuối cùng, Hồ Chí Minh dự đoán thời cơ của cách mạng Việt Nam đang đến gần, tháng 10/1944, Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào toàn quốc, nêu rõ: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.

Người nêu rõ, cần phải nhanh chóng triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một “cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”[2].

Người mong muốn cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội sẽ được tổ chức càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện lúc bấy giờ, triệu tập một cuộc hội nghị có đại biểu toàn quốc tham dự là một việc khó khăn và phải chuẩn bị lâu dài.

Đình Tân Trào, nơi diễn ra Quốc dân Đại hội 

Triệu tập Quốc dân Đại hội

Khoảng cuối tháng 7 đến đầu tháng 8/1945, Hồ Chí Minh bị ốm nặng, nhưng Người luôn theo dõi sát sao diễn biến tình hình thế giới. Qua đài thu thanh, Người biết tin Mỹ đã ném bom nguyên tử xuống Hirosima. Từ đó Người đã chỉ thị viết nhiều thư hoả tốc, tung giao thông đặc biệt đi các hướng để thúc giục các đại biểu ở các địa phương về Tân Trào họp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đại biểu.

Người đã bàn với một số đồng chí về công việc chuẩn bị Hội nghị toàn quốc của Đảng. Khi Thường vụ chưa ấn định ngày, Người nói: “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài Hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”[3].

Thời cơ cách mạng đã chín muồi là thời gian từ sau ngày 13/8/1945, khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh, quân Nhật và tay sai của chúng ở Đông Dương hoang mang, rệu rã. Trong lúc quân Đồng Minh chưa kịp vào Việt Nam để giải giáp quân Nhật.

Thực hiện đúng kế hoạch thời cơ, ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Hội nghị đã đề cập tới hàng loạt vấn đề cụ thể và cấp bách về đối nội, đối ngoại, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh. Hội nghị quyết nghị thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 người, do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách. Và ngay đêm hôm đó Uỷ ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, nêu rõ: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!...”[4].

Đến sáng 15/8/1945, được tin chính xác Nhật hoàng đầu hàng Đồng Minh, Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh thấy không thể chờ đợi đại biểu các nơi đến đông đủ nữa, nên quyết định sẽ khai mạc Đại hội đại biểu Quốc dân vào chiều 16/8/1945. Đại hội họp tại đình Tân Trào, dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam, đại diện các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo và đại biểu kiều bào.

Đại hội đã thông qua Nghị quyết: Giành chính quyền toàn quốc và thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó chính sách thứ năm là: “Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền, Tài quyền (quyền sở hữu). Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền[5].

Đại hội quyết định lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Uỷ ban này cũng như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam trước khi thành lập một chính phủ chính thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với đại biểu Quốc dân Đại hội tại Đình Tân Trào (Tranh tư liệu sơn dầu của Họa sĩ Cao Thương)

Ngày hôm sau, trước đình Tân Trào, thay mặt Uỷ ban giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ trong buổi lễ ra mắt đại biểu quốc dân: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!”[6].

Sau đó, có đoàn đại biểu nhân dân địa phương gồm cả già, trẻ, gái, trai đến chào mừng Đại hội. Người đã đến bên một cháu bé rách rưới gầy còm và nói với các đại biểu: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này”[7].

Do tình thế vô cùng khẩn cấp, nên Đại hội bế mạc vào chiều ngày 17/8/1945, để các đại biểu nhanh chóng trở về địa phương kịp lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa.

Phần họp chính thức đã xong, có một cuộc liên hoan “trong nhà” bắt đầu. Mỗi đại biểu phải có một tiết mục góp vui. Có đại biểu hát bài Thanh niên cứu quốc, có câu: “Gươm đâu, súng đâu, thời cơ đang đến”. Bác liền nói: “lúc này mà còn hỏi “gươm đâu, súng đâu” là chậm. Nói “thời cơ đang đến” cũng là chậm. Và Bác đề nghị sửa lại là: “gươm đây, súng đây, thời cơ đã đến”. Lời Bác đâu phải chuyện chữ nghĩa bình thường, mà chính là tư tưởng thiên tài của lãnh tụ trong nghệ thuật nắm bắt thời cơ[8].

Ngay sau Đại hội quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Uỷ ban dân tộc giải phóng, đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước, trong đó nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[9].

Tầm vóc và ý nghĩa

Có thể nói, Quốc dân Đại hội Tân Trào là hình ảnh tiêu biểu của khối đoàn kết toàn dân, đồng tâm nhất trí đứng lên “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Đây là điều hết sức hệ trọng như Hồ Chí Minh đã nói: “Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng”[10].

Thành công của Đại hội chứng tỏ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã biết kế thừa, phát huy truyền thống hội nghị “Diên Hồng”, “Bình Than”… nhằm thống nhất ý chí và hành động, đoàn kết toàn dân đánh giặc, giữ nước của cha ông trong lịch sử; thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền để thông qua những quyết sách quan trọng, đặt cơ sở mang tính pháp lý đầu tiên cho một nhà nước mới của dân, do dân và vì dân.

Đại hội Quốc dân Tân Trào đã “hoàn thành chức năng, nhiệm vụ như của một Quốc hội dân cử. Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, biểu thị ý chí và quyết tâm đưa cuộc tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn”[11].

Việc làm rõ ý nghĩa và giá trị của Quốc dân đại hội Tân Trào sẽ góp phần đấu tranh phản bác những quan điểm cho rằng: “Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam thắng lợi một cách dễ dàng là một sự “ăn may” trong “khoảng trống quyền lực”, chứ không phải là kết quả của một sự chuẩn bị công phu, lâu dài, với những dự kiến, kế hoạch cách mạng khoa học, đúng đắn”. Có thể nói, đây là quan điểm hết sức phiến diện, sai lầm. Bởi vì, nếu không có một sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo về các mặt, nếu không có một kế hoạch đúng đắn thì làm sao có thể phát hiện, nắm bắt kịp thời và chủ động hành động khi thời cơ tới.

Cơ hội thường xuất hiện một cách khách quan, nhưng quan trọng hơn là nhận biết cơ hội và tận dụng cơ hội đó như thế nào? L.A. Patti - một sỹ quan tình báo của Mỹ đã có mặt và can dự vào những biến động lịch sử ở Việt Nam vào những năm 1944-1945, đã viết cuốn sách có nhan đề Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) đã nêu một sự thật lạ lùng nhưng không phải ngẫu nhiên: “Trong điều kiện của tháng 8/1945, ông Hồ đã biến được những tiềm năng hạn chế của mình thành những thắng lợi trong một câu chuyện thật giống như thần thoại. Nhưng chắc chắn ông Hồ sẽ không thể thành công nếu như Đảng Cộng sản Đông Dương của ông đã không được tổ chức và chuẩn bị tốt cho việc giành chính quyền. Nhiều năm chuẩn bị không phải là vô bổ”[12].

 

[1]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr. 230.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.537.

[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.2, tr.227.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.421.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.560.

[6] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Sđd, t.2, tr.231.

[7] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr.320-321.

[8] Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác (Hồi ký), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr.106.

[9]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.595-596.

[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.595.

[11] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Sđd, tr.322.

[12]L.A. Patti, Why Vietnam Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, 2008, tr.335-336.