
Quốc hội khóa XV (2021 - 2026) đóng vai trò trung tâm trong tiến trình này. Với khối lượng công việc kỷ lục, Quốc hội đã thực hiện sứ mệnh chuyển hóa các quyết sách chính trị (political decisions) từ Văn kiện Đại hội XIII thành các quy phạm pháp luật (legal norms) có tính bắt buộc và hiệu lực thực tế. Việc đánh giá mức độ thể chế hóa là yêu cầu cấp thiết để rút ra bài học kinh nghiệm, chuẩn bị cho nhiệm kỳ khóa XVI và hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 [1].
Lập pháp khóa XV: Sứ mệnh chuyển hóa ý chí chính trị thành quy phạm pháp luật
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu chiến lược: đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và vươn lên thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 [1]. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, Đại hội đề ra hệ thống 12 định hướng phát triển đất nước, 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược.
Quốc hội khóa XV, hoạt động trọn vẹn trong giai đoạn triển khai Nghị quyết, đã được hoạch định lộ trình lập pháp một cách bài bản, khoa học chưa từng có. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 19-KL/TW định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (Đề án 81) [2], tạo khung khổ cho một chiến lược lập pháp dài hạn và bài bản, chuyển tư duy từ trạng thái “phản ứng chính sách” sang trạng thái “chủ động, kiến tạo phát triển”. Sự ra đời của Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022 về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tiếp tục củng cố cơ sở lý luận, yêu cầu hoạt động lập pháp phải đạt đến trình độ kỹ trị cao hơn [3].
Tính đến kết thúc Kỳ họp thứ 10 (12/2025), Quốc hội khóa XV đã xem xét, thông qua khối lượng văn bản khổng lồ gồm hơn 150 luật và nghị quyết quy phạm pháp luật [7], cơ bản hoàn thành “khung thể chế phát triển” cho giai đoạn mới.
Dấu ấn về mức độ thể chế hóa: Các trụ cột đột phá của hệ thống pháp luật
Hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XV đã bao phủ toàn diện 13 nhóm nhiệm vụ của Đại hội lần thứ XIII đề ra, với những điểm nhấn đột phá sau:
Thể chế hóa đột phá về hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường. Đây là trọng tâm lớn nhất với số lượng luật chiếm khoảng 45% tổng số văn bản ban hành. Dấu ấn nổi bật là việc thông qua Luật Đất đai năm 2024 [4]. Đây là cuộc cách mạng pháp lý khi chuyển dịch tư duy từ quản lý hành chính sang sử dụng công cụ thị trường (bãi bỏ khung giá đất, đấu giá quyền sử dụng đất), giải phóng nguồn lực đất đai. Cùng với Luật Nhà ở (sửa đổi) và Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Quốc hội đã tạo ra khung pháp lý đồng bộ cho thị trường bất động sản.
Bên cạnh đó, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) và các quy định về kinh tế số, an ninh dữ liệu. Đặc biệt, Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) đã nội luật hóa các cam kết FTA thế hệ mới, thúc đẩy bảo hộ sáng tạo.
Thể chế hóa các chính sách xã hội và phát triển con người. Quốc hội khóa XV thể hiện đậm nét tính nhân văn và ưu việt của chế độ qua các đạo luật về an sinh xã hội, đặc biệt trong bối cảnh hậu COVID-19. Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) và Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đã giải quyết các vấn đề cấp bách về tự chủ bệnh viện, xã hội hóa y tế và mở rộng lưới an sinh, hiện thực hóa quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau” của Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phòng chống tham nhũng. Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW [3], công tác lập pháp đã tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Luật Thanh tra (sửa đổi) và các quy định mới trong Luật Phòng, chống rửa tiền đã tạo cơ sở pháp lý sắc bén cho công cuộc “đốt lò”, ngăn chặn tham nhũng từ sớm, từ xa. Việc ban hành Nghị quyết số 96/2023/QH15 về lấy phiếu tín nhiệm đã nâng cao thực quyền giám sát của Quốc hội đối với bộ máy hành pháp.
Thành tựu về chất: Bước chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo
Thành tựu lớn nhất của nhiệm kỳ là sự chuyển biến về chất trong tư duy và quy trình lập pháp.
Chuyển từ lập pháp “thụ động” sang “chủ động kiến tạo”. Khác với các nhiệm kỳ trước thường chờ Chính phủ trình dự án luật, Quốc hội khóa XV đã chủ động dẫn dắt thông qua Đề án 81 và các chuyên đề giám sát để “đặt hàng” chính sách [2]. Tư duy “lập pháp thần tốc” tại Kỳ họp thứ 10 là minh chứng rõ nét cho việc Quốc hội sẵn sàng hành động quyết liệt để gỡ vướng thể chế.
Phản ứng chính sách linh hoạt chưa từng có. Trước đại dịch COVID-19, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 [5], trao quyền đặc biệt cho Chính phủ thực hiện các giải pháp chưa có tiền lệ. Đây là sáng kiến lập pháp độc đáo, thể hiện sự nhạy bén chính trị và trách nhiệm cao trước sinh mệnh nhân dân, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền: trao quyền nhưng có giới hạn.
Quy trình lập pháp ngày càng dân chủ và chuyên nghiệp. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong tổng hợp ý kiến nhân dân (như tại dự thảo Luật Đất đai với 12 triệu lượt ý kiến) và tổ chức các Diễn đàn Kinh tế - Xã hội thường niên đã biến quy trình làm luật thành một quy trình mở, thu hút trí tuệ toàn dân, chuyển từ dựa trên kinh nghiệm sang dựa trên dữ liệu (data-driven legislation).
Vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện thể chế cho nhiệm kỳ tiếp theo
Dù đạt được khối lượng đồ sộ, việc thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII vẫn còn những “khoảng tối” cần nhận diện thẳng thắn, làm cơ sở cho công tác lập pháp nhiệm kỳ khóa XVI.
Mâu thuẫn giữa “tính ổn định” và “tính kịp thời”. Áp lực phải thể chế hóa nhanh chóng đã dẫn đến tình trạng một số đạo luật vừa ban hành đã phải sửa đổi hoặc cần văn bản hướng dẫn chi tiết mới thi hành được. Tình trạng “luật khung, luật ống” có xu hướng quay trở lại ở một số lĩnh vực mới như kinh tế số, trí tuệ nhân tạo do thiếu thực tiễn kiểm nghiệm, làm giảm tính ổn định và tính dự báo của pháp luật.
Tính đồng bộ giữa các luật chưa cao. Vẫn còn hiện tượng xung đột pháp luật giữa các luật chuyên ngành (ví dụ giữa Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Đầu tư), gây khó khăn cho địa phương và doanh nghiệp trong áp dụng. Điều này cho thấy tư duy “cắt khúc” theo tư duy quản lý của từng bộ ngành vẫn ảnh hưởng đến quá trình soạn thảo, làm tăng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp [8].
Khoảng trống trong tổ chức thi hành pháp luật Nghị quyết số 66-NQ/TW [6] đã chỉ ra rằng khâu yếu nhất hiện nay không phải là thiếu luật, mà là thực thi luật. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết (nghị định, thông tư) thường xuyên chậm trễ, làm giảm hiệu lực của các đạo luật tiến bộ mà Quốc hội đã thông qua. Khoảng trống này làm suy giảm niềm tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp vào chất lượng thể chế.
Để tiếp tục thể chế hóa thành công các mục tiêu của Đảng, công tác lập pháp nhiệm kỳ tới cần:
Siết chặt kỷ luật lập pháp: Kiên quyết không đưa vào chương trình các dự án luật chưa chuẩn bị kỹ; tăng cường vai trò thẩm tra bằng bằng chứng (Evidence-based Scrutiny) và phản biện độc lập.
Ưu tiên chất lượng hơn số lượng: Chuyển trọng tâm từ ban hành luật mới sang sửa đổi, hoàn thiện và Pháp điển hóa hệ thống pháp luật hiện hành; tập trung vào các “đạo luật gốc” mang tính nền tảng.
Luật hóa cơ chế “Regulatory Sandbox”: Xây dựng khung pháp lý cho phép thử nghiệm các mô hình kinh tế, công nghệ mới trong không gian và thời gian giới hạn, thay vì áp dụng tư duy “không quản được thì cấm”.
Tăng cường giám sát hậu lập pháp: Quốc hội cần dành nhiều thời gian hơn để giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn và tác động thực tế của luật sau khi đi vào cuộc sống, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp.
Chỉ khi bảo đảm tính khả thi và tính đồng bộ của luật pháp trong thực tế, thể chế mới thực sự trở thành động lực mạnh mẽ nhất, kiến tạo tương lai phát triển bền vững cho Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Bộ Chính trị (2021), Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.
[3] Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[4] Quốc hội (2024), Luật Đất đai số 31/2024/QH15 ngày 18/01/2024.
[5] Quốc hội (2021), Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 về Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV.
[6] Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
[7] Văn phòng Quốc hội (2025), Báo cáo số 256/BC-VPQH ngày 23/11/2025 về tổng kết công tác lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021-2026).
[8] Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI (2025), Báo cáo môi trường kinh doanh Việt Nam 2025: Xung đột pháp luật và chi phí tuân thủ, tr. 45-50.
