“Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” là hai câu thơ trong “Việt Nam yêu cầu ca” - tác phẩm chuyển thể từ “Yêu sách của nhân dân An Nam” của Hội những người An Nam yêu nước, được ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Quốc tế vì hoà bình họp ở Vécxây (Versailles) năm 1919. Từ đây và xuyên suốt hành trình cách mạng của dân tộc, triết lý pháp quyền sâu sắc gắn với lý tưởng phụng sự nhân dân, mong muốn hệ thống pháp luật không chỉ là công cụ quản lý nhà nước mà còn là nền tảng cho sự phát triển công bằng và bền vững của xã hội dần hoàn thiện trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

     1. “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”  

     Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc cùng đồng bào đã phải kinh qua cuộc sống phản dân chủ, phi luật pháp của nhà nước thực dân phong kiến gây nên. Theo Người, cái gọi là “công lý” cai trị bằng sắc luật do các viên toàn quyền tuỳ tiện ban hành rất “vô chính phủ và vô đạo đức”, “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”[1] làm cho xứ thuộc địa trở thành cùng khổ, dốt nát và nghiện ngập phải được thay thế bằng “chế độ đạo luật”. Chính vì vậy, năm 1919, thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm có tám điểm đòi thực dân Pháp những quyền tự do, dân chủ và bình đẳng tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Dù chỉ mới dừng lại ở mức đòi công lý mà chưa đòi độc lập, tự chủ, tự quyết nhưng Bản yêu sách vẫn không được Hội nghị Vécxây đếm xỉa đến. Tuy vậy, nó đã để lại một bài học kinh nghiệm sâu sắc cho Người thấy rằng các dân tộc bị áp bức không thể đợi chờ vào những lời hứa suông, những chiêu bài bịp bợm của chủ nghĩa đế quốc.

     Sau cách mạng tháng Tám thành công và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh nêu lên một trong sáu nhiệm vụ quan trọng là phải tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập ra một hiến pháp dân chủ nhằm ghi nhận địa vị pháp lý của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ nhà nước cách mạng và thể hiện vị trí làm chủ của nhân dân trong chế độ mới. Sau đó, ngày 20/9/1945, thay mặt chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34/SL quyết định thành lập Uỷ ban dự thảo hiến pháp do Người đứng đầu. Sau 14 tháng làm việc khẩn trương trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn phức tạp, đến tháng 11/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thông qua. Hồ Chí Minh tự hào khẳng định đây là “Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông”[2]. Đó là Hiến pháp đặt nền móng pháp lý cơ bản cho một chế độ dân chủ, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của nhà nước, tính pháp lý của các quyền dân tộc, quyền công dân cơ bản. Trong thời gian 24 năm sau đó trên cương vị Chủ tịch nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật được hoàn thiện, phát triển và thể hiện qua nhiều văn bản pháp luật do chính Người ký ban hành.

    Trong giai đoạn chờ trước khi có “hiến pháp dân chủ” ra đời thì đất nước độc lập một ngày không thể không có pháp luật nên ngày 10/10/1945, Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh 47/SL quy định về việc tạm thời sử dụng luật cũ miễn không phương hại đến quyền độc lập của đất nước và những nguyên tắc của chính thể dân chủ cộng hoà. Đây là một cách làm linh hoạt sáng tạo và rất thiết thực. Theo nguyên tắc “chế độ nào có pháp luật ấy”[3], nhưng trong bối cảnh vừa giành được chính quyền, chưa xây dựng hệ thống pháp lý hoàn chỉnh nên phải mạnh dạn duy trì một phần pháp luật cũ, miễn không làm tổn hại cho đất nước. Hơn nữa, trong tư duy của Người, pháp luật của các chế độ xã hội khác nhau, nhưng có thể kế thừa, phát triển những giá trị nhân bản chung của văn hoá pháp lý. Kế thừa là quy luật của sự phát triển.

      Khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và đứng đầu nhà nước đó gần ¼ thế kỷ, Hồ Chí Minh đã từng bước chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngoài trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo, ký ban hành hai bản hiến pháp, Hồ Chí Minh còn tham gia chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật, hơn 1300 sắc lệnh và văn bản dưới luật. Qua đó, cho thấy Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, tầm quan trọng của “thần linh pháp quyền”. Theo Người, trước hết mọi hành vi, hoạt động của Nhà nước phải được chi phối, chỉ đạo bởi pháp luật cho đến môi trường pháp chế phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Hơn nữa, càng phải cần đến pháp lý trong bối cảnh xã hội ở thời kỳ quá độ vốn còn nhiều tiêu cực và phức tạp. Chính vì vậy, tại Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 3 năm 1957, Hồ Chí Minh nói: “Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng thì phải thực hiện chế độ pháp trị, và nhiệm vụ của Tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng là pháp lý) là thực hiện chế độ pháp trị”.

     2. “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”

     Cũng giống như nhà nước, pháp luật là sản phẩm ra đời, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp nên nó luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Khi nghiên cứu về pháp luật tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đi đến kết luận: “Pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”[4]. Hồ Chí Minh thì diễn đạt cụ thể: “Luật pháp là vũ khí của giai cấp thống trị, dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình… Luật pháp trước hết là để trừng trị, áp bức. Phong kiến đặt ra luật pháp để trị nông dân. Tư bản đặt ra luật pháp để trị công nhân và nhân dân lao động … Luật pháp của giai cấp bóc lột đặt ra để áp bức các giai cấp bị bóc lột”[5]. Nước ta dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, “pháp luật cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải là ý chí của toàn thể nhân dân ta” nên đương nhiên “luật pháp cũ đặt ra là để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự ấy chỉ có lợi cho thực dân, phong kiến, không có lợi cho toàn thể nhân dân”[6]. Với pháp luật cũ, Người kết luận: Pháp luật là vũ khí của giai cấp thống trị để trừng trị giai cấp chống lại mình; mục đích đầu tiên của pháp luật bóc lột là trừng trị và áp bức giai cấp; bản chất của pháp luật bóc lột là phản dân chủ, phản tiến bộ[7]. Nói cách khác, ở những nhà nước bóc lột, quyền được pháp luật bảo hộ đối với nhân dân lao động là rất xa xỉ, chỉ là niềm mơ ước xa vời. Ở đó, “công lý” mà giai cấp thống trị trương lên chỉ là chiêu bài giả hiệu, mị dân; “công bằng, bình đẳng trước pháp luật” là khái niệm mơ hồ không định lượng được bởi quần chúng lao khổ phải gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề trong khi quyền lợi được hưởng thì rất hạn chế.

     Pháp luật luôn là vũ khí của giai cấp cầm quyền, nhưng pháp luật mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là pháp luật kiểu mới, khác về chất với pháp luật cũ, đó là pháp luật thật sự dân chủ, tiến bộ, bảo vệ lợi ích cho quảng đại quần chúng nhân dân. Người nói: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” và “pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động”[8]. Những quyền cơ bản đó được thể hiện ngay trong Điều 1, Hiến pháp 1946: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Một sự thật được khẳng định không chối cãi là thân phận nô lệ của người dân đã rũ bỏ và trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước, chủ xã hội. Đồng thời, đó cũng là lúc ý chí, nguyện vọng của họ – giai cấp công nhân và nhân dân chiếm số đông trong xã hội được nâng lên thành luật; quyền lợi của hàng triệu người lao động chân chính được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác, pháp luật kiểu mới xã hội chủ nghĩa vẫn mang tính giai cấp nhưng nó thống nhất với tính dân chủ triệt để và tính nhân dân rộng rãi.

     Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tính dân chủ của pháp luật xã hội chủ nghĩa phải được đảm bảo và thể hiện ngay trong quá trình soạn thảo để cho ra đời pháp luật. Hai bản Hiến pháp 1946 và 1959 ra đời dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã thực sự là những cuộc vận động dân chủ sâu sắc. Trong Diễn văn khai mạc phiên họp đầu tiên của ban sửa đổi hiến pháp, đọc ngày 27-2-1957 (sửa Hiến pháp 1946 để ra Hiến pháp mới 1959), Hồ Chí Minh nói: “Bản hiến pháp chúng ta sẽ thảo ra chẳng những phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân miền Bắc, mà còn là mục tiêu phấn đấu cho đồng bào miền Nam. Muốn như thế, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ tình hình của nước ta, nghiên cứu lại bản Hiến pháp 1946… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản hiến pháp của chúng ta mới thực sự là một hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”[9]. Có thể thấy ở Hồ Chí Minh, cơ sở để định ra pháp luật là phải dựa vào lực lượng nhân dân, ý chí của đông đảo các tầng lớp nhân dân quyết định nội dung của pháp luật. Pháp luật dựa vào dân không những là biểu hiện của tính dân chủ, tính nhân dân mà còn thông qua đó trí tuệ của toàn dân tộc kết tinh và phát huy làm cho pháp luật đó có tính khoa học hơn, bám sát thực tế hơn, tránh được những sai sót chủ quan và lạc hậu, tụt hậu. Mặc khác, ý chí của nhân dân được thể hiện trong luật thì ý thức tôn trọng pháp luật cũng được nâng cao, góp phần bình ổn trật tự xã hội hơn. (còn nữa).


[1]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, t.4, tr.1.

[2]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Sđd, t.4, tr.491.

[3]. Hội luật gia Tp. Hồ Chí Minh (1985): Hồ chủ tịch và pháp chế, Tp. Hồ Chí Minh, tr.185.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen (2017): Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.104-105.

[5]. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr.185.

[6]. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Sđd, tr.185.

[7]. Xem Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Sđd, tr.185-186.

[8]. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Sđd, tr.185.

[9]. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Sđd, t.10, tr.510-511.