(VNTV). Không có sự thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế, soạn thảo và thực thi cơ chế, chính sách như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm, cũng tức là, thói quen, cách làm của tư duy “quản lý tùy tiện” sẽ không có chỗ đứng. Nhưng cuộc cách mạng nào cũng khó khăn, cần những quyết định dũng cảm.

Không gian phát triển không giới hạn cho khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đang dần hiện hữu khi tư duy “không quản được thì cấm” chính thức bị loại, không còn sự thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế, soạn thảo và thực thi cơ chế, chính sách, như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm. Tất nhiên, mọi sự thay đổi sẽ không đến trong ngày một, ngày hai, nhưng tốc độ sẽ nhanh khi cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp đồng tốc, đồng hướng.

Tổng Bí thư yêu cầu xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát. Ảnh: Báo Đầu tư

Mở để quản trị

Trong cuộc họp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới, diễn ra cuối tuần trước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo chuyển mạnh từ tư duy hành chính sang tư duy thị trường có kỷ cương, từ “siết để kiểm soát” sang “mở để quản trị”; nhất định phải quán triệt, xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; đồng thời phải đưa thị trường vàng vận động phù hợp với các nguyên tắc của thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

Cụ thể, Tổng Bí thư yêu cầu nhanh chóng sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP theo hướng thị trường hóa có lộ trình và có kiểm soát chặt chẽ; tạo sự kết nối hiệu quả hơn giữa thị trường vàng trong nước và thị trường quốc tế.

Xóa bỏ thế độc quyền nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát trên nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng, nhưng có thể cấp phép cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia sản xuất vàng miếng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, từ đó giúp đa dạng hóa nguồn cung và ổn định giá cả.

Mở rộng quyền nhập khẩu có kiểm soát để tăng cung vàng, góp phần giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới, đồng thời hạn chế tình trạng buôn lậu vàng qua biên giới...

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế hẳn đã chờ đợi những chỉ đạo này từ rất lâu. Chỉ vài ngày trước cuộc họp trên, ông đã đặt vấn đề rất đáng lo ngại là, 14 năm nay, chúng ta cấm nhập khẩu vàng, vậy vàng đang buôn bán trên thị trường Việt Nam từ đâu ra.

“Các công ty kinh doanh vàng bạc phải gom vàng buôn lậu, gom vàng trong dân để gia công, chế biến. Quy định cấm nhập khẩu vàng, nhưng doanh nghiệp vẫn phải tồn tại, kinh doanh, nên phải thu gom trên thị trường để kinh doanh”, ông Nghĩa lý giải.

Tất nhiên, không thể phủ nhận vai trò lịch sử của Nghị định 24/2012/NĐ-CP khi đã góp phần ngăn chặn tình trạng “vàng hóa” - sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán trong nền kinh tế Việt Nam. Song sự tồn tại quá lâu của một cơ chế độc quyền, mang nhiều tính thời điểm trong bối cảnh kinh tế vĩ mô, quan hệ tài chính - tiền tệ, quan hệ quốc tế... thay đổi rất lớn, khiến chúng trở thành nút thắt, gây hệ lụy cho nền kinh tế, không thể không tháo gỡ.

Nhưng điều mà TS. Nghĩa lo ngại hơn cả là, ngay thời điểm này, rất nhiều ý kiến vẫn viện cớ vào những đặc thù của Việt Nam, như “dân Việt Nam quá yêu chuộng vàng, nên cần quản lý vàng”, rằng “nhập khẩu vàng thì sẽ chảy máu đô-la”...

“Mỗi năm, Việt Nam chi 3-4 tỷ USD nhập khẩu vàng, nhưng nhập khẩu rượu ngoại, xì gà, thuốc lá ngoại tới 8 tỷ USD? Vàng là một nguồn dự trữ vô cùng quan trọng thì kêu, trong khi đô-la chảy ra để nhập rượu, xì gà, thuốc lá lại không. Đây là điều phi lý”, TS. Nghĩa thẳng thắn bình luận.

Rõ ràng, yêu cầu chuyển từ tư duy “nhà nước quản lý” sang “nhà nước phục vụ” đang tác động rất mạnh tới cách làm việc, thói quen và tâm lý cán bộ, công chức ở nhiều cấp, nhưng như băn khoăn của nhiều doanh nghiệp, nếu không có sức ép thực thi, thì không dễ có được kết quả thực chất.

Sẽ cần những quyết định khó khăn

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương rất thận trọng khi kiến nghị xem xét tính pháp lý của 2 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được ban hành từ năm 2013 đang được sử dụng làm các điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu gạo theo Nghị định số 107/2018/NĐ-CP. Đó là QCVN 01-133:2013/BNNPTNT về kho chứa thóc và QCVN 01-134: 2013/BNNPTNT về cơ sở xay, xát thóc gạo.

“Hai quy chuẩn kỹ thuật về kho và cơ sở xay, xát thóc gạo được ban hành dưới hình thức thông tư của bộ quản lý, trong đó có nội dung về dung tích kho chứa, công suất máy xay xát - các điều kiện về đầu tư, kinh doanh. Điều này vi phạm quy định của Luật Đầu tư và đáng ra không còn hiệu lực”, ông Cung khẳng định.

Cụ thể, Điều 7, Luật Đầu tư năm 2014, một năm sau khi các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trên được ban hành, đã cấm việc ban hành điều kiện đầu tư - kinh doanh tại văn bản cấp thông tư. Điều 74, Luật Đầu tư 2014 quy định, các điều kiện đầu tư, kinh doanh được ban hành ở cấp thông tư đã hết hiệu lực từ ngày 1/7/2016.

Đây là lý do, trong năm 2016 và 2018, Chính phủ đã có các đợt rà soát, cắt giảm điều kiện đầu tư - kinh doanh trong các văn bản cấp thông tư và đưa lên cấp nghị định với những điều kiện kinh doanh cần thiết. Hầu như các quy định mang tính điều kiện đầu tư - kinh doanh tại các quy chuẩn kỹ thuật, các văn bản ở hình thức thông tư không còn.

Đáng nói hơn, các chuyên gia cho rằng, quy chuẩn này chính là một rào cản gia nhập thị trường mang tính phân biệt đối xử về quy mô doanh nghiệp, không liên quan các yếu tố về an toàn hay lợi ích công cộng như yêu cầu cần có của quy chuẩn kỹ thuật.

Vậy nhưng, từ đó đến nay, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo buộc phải tuân thủ với chi phí không hề nhỏ và đang có nguy cơ bị siết chặt hơn.

Tất nhiên, những tồn tại này không chỉ có trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật và những khó khăn trong cải cách tư duy, thay đổi nhận thức không chỉ ở một vài ngành, lĩnh vực.

Ngay trong những báo cáo của một số bộ, ngành về phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh mà Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tiếp cận được, tình trạng bãi bỏ “những điều kiện không mấy ảnh hưởng” còn không ít. Đó là các đề xuất sửa đổi, bãi bỏ một số trường thông tin trong các tài liệu (như sửa đổi “người ký tên” trên biểu mẫu của thủ tục thành “người đại diện theo pháp luật”), hay bãi bỏ một số tài liệu trong thành phần hồ sơ (như bỏ yêu cầu phải có bản sao không cần chứng thực giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư...). Có những đề xuất mạnh mẽ, như bãi bỏ hoàn toàn một số thủ tục hành chính (cắt giảm thủ tục đối với 5/7 hình thức khuyến mại), giảm số ngày giải quyết thủ tục (từ 5 ngày làm việc xuống còn 3 ngày làm việc đối với thủ tục đổi tên cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu), nhưng không nhiều.

Hơn thế, trong Báo cáo dòng chảy pháp luật kinh doanh năm 2024 mới được VCCI công bố, sự dè dặt, ngập ngừng trong chuyển đổi tư duy quản lý nhà nước với một số ngành, lĩnh vực vẫn rất lớn.

Ví dụ, Luật Công chứng vẫn quy định kiểm soát chặt chẽ văn phòng công chứng qua 2 bước thành lập và đăng ký hoạt động, thay vì có thể gộp làm một vì cùng thực hiện tại Sở Tư pháp. Đề xuất áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với sản xuất thiết bị bay không người lái (UAV) bằng điều kiện kinh doanh cũng được các doanh nghiệp phản biện là quá mức cần thiết, chưa phù hợp thực tiễn, kìm hãm sự phát triển của chính ngành công nghiệp UAV và cả các ngành khác như nông nghiệp, du lịch, giải trí, trong khi nguy cơ tác động đến lợi ích công cộng nằm ở hoạt động sử dụng... Ngay cả cơ chế kinh doanh xăng dầu vẫn chưa chuyển đổi hoàn toàn sang tư duy thị trường; một số quy định, như cấm thương nhân phân phối mua bán lẫn nhau gây khó khăn cho doanh nghiệp... Cho dù 10 năm qua, tính từ thời điểm ban hành Nghị định 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, Bộ Công thương rất nỗ lực chỉnh sửa, với 3 lần sửa đổi và đang dự thảo sửa lần thứ tư, nhiều phương án cởi mở hơn, song tốc độ lại quá chậm.

“Sẽ rất khó khăn, nhưng tôi cho rằng, cần phải làm rõ trách nhiệm của những người có liên quan khi tùy tiện trong thực hiện nhiệm vụ, không tuân thủ đúng tinh thần cải cách, như Tổng bí thư nói là thích thì làm, không thích thì thôi”, ông Cung thẳng thắn. Thậm chí, chuyên gia này đề nghị thay đổi, điều chuyển cá nhân, đơn vị được giao nhiệm vụ nếu không đáp ứng được yêu cầu của “bộ tứ trụ cột”.

Yêu cầu dứt khoát nói “không” với bất cứ hạn chế, bất cập nào trong thể chế, pháp luật chỉ có thể thực hiện được khi từng công chức thẩm thấu rõ mệnh lệnh của thời đại mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Thời cơ đến, nếu không làm, bỏ lỡ là có tội với dân, với nước”.

“Nghị quyết số 57-NQ/TW không phải là khẩu hiệu chính trị, mà là chương trình hành động thực tế để Việt Nam cất cánh. Vì vậy, các công việc triển khai phải được kiểm đếm thường xuyên. Những tồn tại, hạn chế, điểm nghẽn phải được đánh giá, tháo gỡ kịp thời, không được chậm trễ”...  "Phải xem xét, xử lý trách nhiệm khi nhiệm vụ không hoàn thành mà không có lý do chính đáng. Những việc này không thể quên được, không thể tùy tiện thích làm thì làm, không thích làm thì thôi- Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm trong cuộc họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 29/5/2025.