Ngày 21/10/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Chúng ta cần biết”, đăng trên báo Nhân Dân, số 597, nêu rõ: “Những nơi có đê, đồng bào phải tiếp tục giữ đê, phòng lụt. Biết lo xa, thì khỏi bối rối gần”[1]. Những lời chỉ dẫn của Người về giữ đê, phòng, chống thiên tai, bão lũ có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác phòng, chống thiên tai, nhất là phòng chống bão lụt. Người chỉ rõ: thiên tai, bão lũ, hạn hán cũng là một thứ giặc cần phải đấu tranh: “Nếu lụt thì đói. Lụt cũng là một thứ giặc ghê gớm. Người ta thường nói “thủy, hỏa, đạo, tặc”. Chúng ta phải ra sức ngăn giặc lụt như chống giặc ngoại xâm….. Các bộ đội, dân quân, tự vệ phải cố gắng giúp đồng bào những công việc đó”[2].

Những lời chỉ dẫn của Bác về phòng, chống thiên tai, lũ lụt

Ngày 20/8/1945, nước lũ trên sông Hồng tại Hà Nội lên đến đỉnh điểm 11,92 m, hệ thống đê sông Hồng bị vỡ nhiều chỗ, làm ngập lụt gần hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Lúc này, chúng ta vừa mới giành được chính quyền cách mạng, công việc còn bộn bề, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các địa phương, chỉ sau chưa đầy một tháng, nhân dân miền Bắc đã hàn khẩu được toàn bộ đê vỡ và kịp thời bước vào sản xuất cứu đói.

Ngày 11/10/1945, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định vừa dùng kinh phí Nhà nước, vừa kêu gọi toàn dân đóng góp để sửa đê và đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ trưởng Giao thông công chính Đào Trọng Kim đi kiểm tra một số nơi đang sửa đê.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn chống thiên tai có hiệu quả, các cấp chính quyền phải có kế hoạch cụ thể, khoa học: “Các ủy ban phòng và chống bão lụt ở trung ương, tỉnh, huyện và xã phải có kế hoạch thật chu đáo, phân công thật rõ ràng, kiểm tra thật kỹ lưỡng”[3].

Đồng thời, phải có sự phân công rõ ràng, kiểm tra, đôn đốc chu đáo: “Trong việc đắp đê giữ đê, kế hoạch phải rất tỉ mỉ, phân công phải rất rành mạch, chuẩn bị phải rất chu đáo, lãnh đạo phải rất thống nhất. Cán bộ quân, dân, chính, đảng, những vùng ấy phải xem việc đắp đê giữ đê là việc chính. Phối hợp phải thật chặt chẽ. Chỉ đạo phải thật thiết thực. Tổ chức phải thật đầy đủ. Tuyệt đối chống cách khoán trắng, chống quan liêu, mệnh lệnh”[4].

Thư Bác Hồ gửi đồng bào các tỉnh có đê năm 1946 (Ảnh tư liệu)

Muốn vậy, phải hiểu rõ nhân dân, nắm chắc đặc điểm đối tượng người dân ở từng địa bàn để có công tác phân công tuyên truyền, tổ chức chặt chẽ chu đáo. Trong tổ chức vận động nhân dân tham gia phòng, chống thiên tai cần phải bám sát thực tiễn để tìm hiểu, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân.

Người yêu cầu: “Cán bộ chính quyền và cán bộ Đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...”[5].

Ngày 01/01/1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập. Chỉ sau đó 10 ngày, sáng ngày 10/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ đã đi kiểm tra tình hình hàn khẩu các đoạn đê bị vỡ ở hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, nhưng không báo trước cho địa phương.

Tại thị xã Hưng Yên, sau khi thăm nhà một số bà con nghèo, Người tiếp chuyện các thân hào tới chào mừng và nói: “Chúng tôi xuống đây có hai việc: trước là để thăm đồng bào Hưng Yên, thứ hai là để thăm đê… Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ, mà là của tất cả mọi quốc dân…cho nên mọi người đều phải sốt sắng giúp vào việc đắp đê. Vậy các thân hào phải hăng hái giúp đỡ những đồng bào khác đi đắp đê…, phải giúp cho họ ăn, phải góp tiền, thóc nuôi họ. Chỉ có cách đó là có thể ngăn ngừa được nạn đê vỡ. Nước sông cao bao nhiêu đi nữa, mà lòng nhiệt tâm của các bạn cao hơn thì không bao giờ có lụt nữa”[6].

Ngày 22/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 70/SL thành lập Uỷ ban Trung ương Hộ đê. Sắc lệnh được công bố đã khẳng định trách nhiệm và ý chí của nhà nước cách mạng trước dân tộc, trước đời sống dân sinh và sự an toàn của nhân dân, khẳng định sức sống mãnh liệt và chủ quyền của nhà nước cách mạng non trẻ trước nguy cơ cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp sẽ nổ ra chỉ còn tính từng giờ.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác thủy lợi, phòng chống thiên tai, bảo vệ mùa màng vẫn được duy trì và nổi lên như một công tác lớn của hậu phương. Từ chiến khu Việt Bắc, tháng 6/1947, Người viết thư gửi đồng bào trung du và hạ du chống lụt, tha thiết kêu gọi mọi người đều phải coi việc canh đê, phòng lụt là việc thiết thân của mình: “Ai cũng phải tham gia công việc sửa đê, canh đê. Hễ chỗ nào sạt thì phải dồn tất cả lực lượng đến đó mà sửa chữa ngay. Làng này phải giúp làng khác. Vùng này phải giúp vùng khác. Mỗi nhà lại cần đan thuyền và bắc sàn ngay. Chớ để nước đến chân mới nhảy. Các bộ đội, dân quân, tự vệ phải cố gắng giúp đồng bào những công việc đó. Các Uỷ ban kháng chiến, Uỷ ban hành chính, các đoàn thể phải phụ trách tuyên truyền, cổ động, khuyên bảo, nhắc nhủ đồng bào làm những công việc đó. Các anh em nhân viên Công chánh phải hăng hái chịu khó, thiết thực hợp tác với các cơ quan, các đoàn thể để bày vẽ và kiểm soát những công việc đó”[7].

Trong sự bộn bề công việc kháng chiến, năm nào. Người cũng gửi thư nhắc nhở về việc chống lũ, chống hạn, không được chủ quan. Thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của nhân dân trước các thảm họa thiên tai, trong suốt 25 năm lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tới 179 lần đích thân chăm lo đến các vấn đề thiên tai bão lũ, hạn hán.

Tháng 8/1969, lũ sông Hồng, sông Thái Bình lên rất cao. Trong những ngày cuối đời, Người vẫn theo dõi tình hình mực nước lũ đang uy hiếp các triền đê, mời Bộ trưởng Thủy lợi Hà Kế Tấn đến báo cáo tình hình và ân cần dặn dò, chỉ bảo, động viên tổ chức giữ đê, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm kè bảo vệ ở sông Đà ở Cổ Đô, huyện Bà Vì, tỉnh Hà Tây (nay là xã Cổ Đô, Thành phố Hà Nội), ngày 08/7/1958 (Ảnh tư liệu)

Vận dụng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng, chống thiên tai, lũ lụt hiện nay

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động đến Việt Nam ngày càng nặng nề, khó dự báo, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác phòng, chống thiên tai, bão lũ ngày càng trở nên quan trọng.

Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên tai được nâng tầm hoạt động từ năm 2019 với 37 thành viên do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban Chỉ đạo.

Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định về việc tổ chức lại 3 Ban Chỉ đạo (gồm Ban Chỉ đạo phòng thủ dân sự quốc gia, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai, Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm Cứu nạn) thành Ban Chỉ đạo phòng thủ dân sự quốc gia. Ban Chỉ đạo phòng thủ dân sự quốc gia và ban chỉ huy các cấp đã phát huy vai trò trung tâm, quán triệt sâu sắc phương châm hành động: “chủ động, quyết liệt, phòng ngừa, ứng phó ở mức cao nhất, sẵn sàng ứng phó với các tình huống xấu nhất”.

Thiên tai ngày càng diễn biến phức tạp khó lường. Chỉ tính trong năm 2024 và 7 tháng đầu năm 2025, toàn quốc đã xảy ra hơn 10.200 sự cố, thiên tai, làm 1.389 người chết, 398 người mất tích và thiệt hại vật chất rất lớn. Riêng cơn bão số 3 (Yagi) năm 2024, mạnh nhất trong 70 năm trên đất liền, cùng mưa lũ sau đó đã tàn phá nặng nề 26 tỉnh thành phía Bắc, cướp đi sinh mạng của 345 đồng bào ta và gây thiệt hại kinh tế gần 85.000 tỷ đồng, giảm 0,25 điểm phần trăm tăng trưởng năm 2024.

Xu thế cực đoan, dị thường của thời tiết và thiên tai tiếp tục diễn ra trong 7 tháng năm 2025, với 114 người chết, mất tích và thiệt hại kinh tế trên 553 tỷ đồng. Tổng nguồn lực huy động từ Trung ương và toàn xã hội cho ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, Chính phủ đã huy động 5.530 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2024 để hỗ trợ các địa phương; về hiện vật, đã xuất cấp 1.052 tấn gạo, 629 tấn hạt giống các loại và 90.000 lít hoá chất khử trùng từ dự trữ quốc gia.

Các địa phương cũng nỗ lực rất lớn trong việc khắc phục hậu quả thiên tai. Tỉnh Quảng Ninh đã chủ động bố trí nguồn lực 1.000 tỷ đồng, cấp 180 tỷ đồng từ ngân sách dự phòng và các địa phương trong tỉnh đã tự cân đối gần 200 tỷ đồng để khắc phục thiệt hại. Tỉnh Lào Cai, tổng kinh phí khắc phục hậu quả là 2.732 tỷ đồng.

Cộng đồng quốc tế, các quốc gia, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ đã hỗ trợ Việt Nam trên 25 triệu USD cùng với 222 tấn hàng cứu trợ, thể hiện tinh thần đoàn kết, hữu nghị, sát cánh cùng nhân dân Việt Nam vượt qua khó khăn[8].

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đã huy động nguồn lực xã hội hóa lên tới gần 3 nghìn tỷ đồng. Trong bối cảnh vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, công tác phòng thủ dân sự, chỉ đạo, điều hành phòng, chống thiên tai và cứu hộ, cứu nạn vẫn được duy trì liên tục, cơ bản thông suốt. Cơn bão số 10 những ngày đầu tháng 10 năm 2025 gây ra thiệt hại to lớn: Có 52 người chết, 14 người mất tích, 165 người bị thương; 355 nhà sập, đổ, gần 172.300 nhà hư hỏng, tốc mái, gần 80.000 nhà ngập; trên 90.000 ha lúa, hoa màu, cây trồng khác, trên 50.000 ha rừng bị thiệt hại, trên 84.000 cây xanh bị gãy đổ, trên 17.000 ha thủy sản bị thiệt hại; trên 2.300 con gia súc, 554.000 con gia cầm bị chết, cuốn trôi. Trên 1.500 điểm trường bị ảnh hưởng, đã xảy ra 62 sự cố đê điều, sạt lở 33.176 m kè, bờ sông, bờ biển, trên 60.000 m kênh mương, 203 công trình thủy lợi bị hư hỏng; ngập lụt, sạt lở, ách tắc giao thông tại 7.610 điểm trên các tuyến đường tại 13 tỉnh, thành phố; gần 9.000 cột điện bị gãy, đổ, trên 1.100 trạm BTS (trạm thu phát sóng di động) mất liên lạc; thông tin liên lạc đáp ứng công tác của chính quyền địa phương cấp xã nhưng chất lượng không tốt như ngày thường. Tổng thiệt hại về kinh tế sơ bộ tại một số tỉnh là 15.972 tỷ đồng[9].

70 năm qua, học tập lời Bác dạy về công tác phòng, chống thiên tai bão lụt, Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền và cả cộng đồng luôn phát huy cao nhất tinh thần phòng, chống bão lụt, giảm thiểu thiệt hại về người và của. Đối mặt với những diễn biến thiên tai ngày càng cực đoan, khốc liệt, dưới sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp, sát sao của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng chức năng đã triển khai quyết liệt, hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, nhất là các lực lượng tuyến đầu, lực lượng quân đội, công an đã luôn sẵn sàng vào cuộc, hỗ trợ người dân, đồng thời phát huy vai trò trung tâm, chủ thể của người dân, “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” được phát huy, qua đó giảm tối đa thiệt hại về tính mạng, tài sản của Nhà nước và người dân và nhanh chóng khắc phục hậu quả do bão lũ gây ra.

 

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.10, tr. 168.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 188.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr.585.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr.166.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr.233.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr.177.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr.188 - 189.