Từ trước đến nay, người ta hay nhắc đến âm mưu đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Đó là mưu đồ đòi tách rời quân đội với chính trị, quân đội đứng ngoài chính trị. Tuy nhiên, cũng có một xu hướng khác là âm mưu “phi chính trị hóa” văn học, nghệ thuật. Nhiều quan điểm cho rằng văn học, nghệ thuật thuần túy là sản phẩm sáng tạo tinh thần nên “không cần phải chịu sự chi phối của chính trị”. Liệu Việt Nam có thể chấp nhận một nền văn học, nghệ thuật đứng ngoài chính trị không?

Thực chất của âm mưu “phi chính hóa” văn học, nghệ thuật

Âm mưu “phi chính trị” hóa văn học, nghệ thuật thực chất đã có từ lâu với những biểu hiện khác nhau.

Ở góc độ của người sáng tác, đó là xu hướng sáng tạo ra các tác phẩm thuần túy nghệ thuật, chỉ phục vụ cho nhu cầu tình cảm, thẩm mỹ của con người, xa rời với hiện thực cuộc sống, với các nhiệm vụ chính trị của dân tộc và thời đại. Thực tiễn ở Việt Nam thời gian qua, có nhiều tác phẩm văn học và xu hướng sáng tác như vậy. Mục đích chủ yếu là hướng các sáng tác chỉ thuần túy phục vụ mục đích nghệ thuật hoặc tìm chỗ đứng “an toàn” cho tác phẩm của mình, không bị dư luận phán xét dưới góc nhìn chính trị.

Ở góc độ của công chúng - những người thụ hưởng các sáng tạo nghệ thuật. Không thể phủ nhận có một bộ phận công chúng không muốn tiếp cận với các tác phẩm mang tính chính trị vì họ cho rằng nó “khôn khan”, “cứng nhắc”, “không có tính sáng tạo”. Do đó, họ cổ súy cho xu hướng sáng tác thiên về sáng tạo nghệ thuật, không cần chú trọng đến hiện thực lịch sử xã hội. Nguy hiểm hơn, một số người khác lại nhân danh ủng hộ “nghệ thuật chân chính”, “nghệ thuật nhân văn” để lên tiếng tố cáo, bài xích quá trình xem xét, thẩm định các tác phẩm trước khi cấp phép xuất bản. Họ cáo buộc rằng “đường lối văn nghệ của Đảng là cứng nhắc, ép buộc” khiến các tác phẩm “phải chịu sự kiểm duyệt chặt chẽ của Nhà nước”, hay vu cáo “sự độc đoán về tư tưởng đã bóp chết văn học, nghệ thuật”!

Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” văn học, nghệ thuật, thời gian qua xuất hiện xu hướng đòi thành lập tổ chức “Văn đoàn độc lập” từ một số nhà văn, nhà thơ luôn nêu cao tinh thần “tự do sáng tạo nghệ thuật”. Tuy nhiên, đây chính là cái cớ để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong và ngoài nước dấy lên làn sóng kích động một số nhà văn, nhà thơ, trong đó có nhiều người có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội lên tiếng đòi “ly khai”, “tách rời” các tổ chức, hội nhóm văn học, nghệ thuật ra khỏi các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chịu sự quản lý của Nhà nước.

Gần đây, nhân sự kiện trao giải thưởng cho một tác phẩm văn học đang có nhiều ý kiến trái chiều, xu hướng đòi “phi chính trị hóa” văn học, nghệ thuật lại trỗi dậy. Một số nhà văn, nhà thơ cáo buộc rằng việc phán xét tác phẩm đã được trao giải là “quy chụp”, “thiếu hiểu biết”, “không có tư duy nghệ thuật” bởi họ cho rằng chỉ nên nhìn nhận tác phẩm đó ở góc độ nghệ thuật để thấy được “tài năng xuất chúng” của nhà văn cũng như “tính nhân văn sâu sắc” của tác phẩm khi đã chạm đến những vấn đề bản năng cũng như khát vọng chính đáng của con người!

Văn học, nghệ thuật chân chính liệu có thể tách rời chính trị?

 Văn học, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Cũng như ý thức xã hội nói chung, văn học, nghệ thuật nói riêng không nhất thiết phải bê nguyên xi hiện thực vào tác phẩm mà có thể có tính độc lập tương đối. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là có một thứ văn học, nghệ thuật thoát thai hoàn toàn khỏi hiện thực cuộc sống, xa rời đời sống chính trị - xã hội. Thực tiễn cho thấy những tác phẩm văn học lớn trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều là bức tranh phản ánh hiện thực qua lăng kính của nhà văn nhưng nó phải hướng con người đến giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất đề cao sứ mệnh của văn học, nghệ thuật nước nhà cũng như vai trò to lớn của đội ngũ văn nghệ sĩ. Khi nói về sứ mệnh của văn học, nghệ thuật kháng chiến, Người chỉ rõ: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng… Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới”[1]. Riêng với văn học, nghệ thuật, Người nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”[2].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng những con người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau”[3]. Nghĩa là, người nghệ sĩ phải như “người thư ký trung thành của thời đại”, luôn lắng nghe, thấu hiểu, phản ánh kịp thời những sự kiện quan trọng của đời sống xã hội, những tâm tư, mong ước của Nhân dân.

Là một trong những người kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã lường đoán được xu hướng đòi “phi chính trị” hóa văn học, nghệ thuật nước nhà. Phát biểu trong tại Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đồng chí đã chỉ rõ: “Đấu tranh bảo vệ, nuôi dưỡng, khẳng định cái mới, cái tích cực, cái tốt đẹp và chống cái ác, cái xấu xa, cái thấp hèn là chức năng, nhiệm vụ tự thân của văn học, nghệ thuật, nó không có bất cứ một áp lực từ trên hay từ bên ngoài vào. Đảng không áp đặt, ép buộc, gán cho văn học, nghệ thuật một nhiệm vụ “chính trị” khô khan, giản đơn, nhất thời nào, mà hiểu nó như một sứ mệnh, một sức mạnh vốn có của văn học, nghệ thuật chân chính, đặc biệt trong cuộc đấu tranh ngày hôm nay”[4].

Từ cơ sở lý luận và cơ sở chính trị quan trọng đó, có thể thấy rõ sứ mệnh của văn học, nghệ thuật chân chính là phản ánh đời sống hiện thực song cũng đồng thời hướng con người đến giá trị cao đẹp, không “bôi đen” hay “tô hồng” lịch sử bằng những hư cấu phi lý, chỉ hướng đến những cảm xúc, dục vọng cá nhân mà quên đi bối cảnh thời đại cùng những giá trị nhân văn cao đẹp mà con người luôn hướng tới.

Nói riêng về một tác phẩm viết về đề tài chiến tranh - một đề tài mang tính lịch sử thì không thể không tính đến yếu tố thời đại và yếu tố chính trị. Đành rằng mỗi tác phẩm sẽ phải gắn với số phận một hoặc một vài con người với rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đành rằng nói về chiến tranh thì không thể không nói đến mất mát, đau thương, không nói đến “nỗi buồn” nhưng mất mát, đau thương, hay nỗi buồn ấy là cảm xúc chung của cả dân tộc. Không thể vì đi sâu vào nỗi buồn để ấy để tạo ra “một cái nhìn khác” về chiến tranh để mà xuyên tạc lịch sử, để mà cáo buộc rằng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã phải đánh đổi bằng biết bao xương máu của cha ông là một “cuộc nội chiến” hay “cuộc chiến tranh vô nghĩa”. Với cách nhìn nhận như thế, thật dễ hiểu tại sao tác phẩm đó lại được thế giới, nhất là các nước có cái nhìn định kiến về cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam lại tung hô, lại dịch ra nhiều thứ tiếng để phát hành rộng rãi. Đó phải chăng là sự “tiếp tay” cho một mưu đồ “lật sử”, “xét lại” lịch sử?

Không phải ngẫu nhiên mà những ngày qua, công chúng lại chú ý nhiều đến việc trao giải cho một tác phẩm văn học về chiến tranh như thế. Công chúng không chỉ lần giở lại nhân thân của người sáng tác cũng như “số phận” của tác phẩm từ khi mới ra đời mà còn chú ý đến các luồng ý kiến khác nhau. Điều đó cho thấy công chúng rất quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội nên không có cớ gì, các tác phẩm văn học, nghệ thuật lại có thể đứng bên ngoài chính trị. Đó là một sự đòi hỏi phi lý, xuất phát từ sự đối lập về ý thức hệ và nhất định không thể có sự thỏa hiệp!

 

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t 5, tr.577

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t 67, tr 653

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t 13, tr.504

[4] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, tr 320-321