Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tất cả sự quan tâm, chăm lo và tình cảm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong tư tưởng của Người “đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau...”[1]
1. Tháng 12-1945, mấy tháng sau khi nước nhà tuyên bố độc lập, Bác viết thư gửi “Đồng bào các dân tộc thiểu số”, khẳng định vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam trong hành trình đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “nhờ sự đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc, nhờ sự hy sinh phấn đấu của tất cả đồng bào, mà chúng ta tranh được quyền tự do, độc lập, và xây nên nước Dân chủ Cộng hòa”[2].
Trong những bức thư, những buổi nói chuyện với cán bộ và nhân dân, với phụ nữ và các cháu học sinh, Bác thường nhắc nhở tới tình đoàn kết, tới việc chăm lo đời sống cho đồng bào, căn dặn đồng bào tích cực xây dựng đời sống mới…
Nói chuyện với đồng bào Hà Giang, Bác căn dặn: “Trước kia, bọn thực dân phong kiến nắm quyền làm chủ, chúng bắt đồng bào ta làm nô lệ. Ngày nay, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là tất cả đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà. Cán bộ từ Trung ương đến khu, đến Tỉnh, huyện và xã đều phải một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của nhân dân, chứ không phải là “quan cách mạng”. Nhân dân đã làm chủ, thì phải làm gì để xứng đáng là người chủ tốt? – Trước hết, tất cả các dân tộc, bất kỳ to hay là nhỏ, đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. – hai là, đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm cơm lo. Muốn như vậy, đồng bào vùng thấp cũng như vùng rẻo cao, phải tổ chức nhau lại thành tổ đổi công và hợp tác xã. Người đông thì sức mạnh, sức mạnh thì sản xuất được nhiều hơn”[3] .

Bác Hồ với các cháu thiếu nhi vùng cao Việt Bắc năm 1960 (Ảnh tư liệu)
Bác Hồ cũng hết sức quan tâm đến việc chăm lo phát triển cho con em miền núi, bởi vì đó chính là lực lượng quan trọng sẽ giúp cho đời sống của đồng bào miền núi tiến nhanh cùng đồng bào cả nước. Trong thư gửi các học sinh Trường sư phạm Miền núi Trung ương, nhân dịp trường khai giảng, Bác viết: “Các cháu thuộc nhiều dân tộc và ở nhiều địa phương. Nhưng các cháu đều là con em của đại gia đình chung: là gia đình Việt Nam; đều có một Tổ quốc chung: là Tổ quốc Việt Nam. Trong hơn 80 năm, vì chúng ta bị thực dân Pháp và bọn vua chúa áp bức cho nên chúng ta lạc hậu, văn hoá kém cỏi, mà chúng nó áp bức được là vì chúng nó chia rẽ chúng ta, vì chúng ta chưa biết đoàn kết. Ngày nay, các dân tộc anh em, chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hoá của mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần vào việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt nam yêu quý của chúng ta”[4].
Trước khi về cõi vĩnh hằng, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[5].
Như vậy, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Điều đó xuất phát từ mục tiêu cao cả của cách mạng Việt Nam là đem lại tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người trong đại gia đình các dân tộc.
Qua những bài nói, thư từ gửi cán bộ và đồng bào các dân tộc miền núi, Bác Hồ luôn luôn nhắc nhở cán bộ và đồng bào không ngừng thắt chặt tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, chống lại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, cùng nhau đánh đuổi quân xâm lược, chung tay xây dựng Tổ quốc.
2. Qua 13 nhiệm kỳ Đại hội, quan điểm xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số luôn thể hiện sự nhất quán trong việc bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và phát triển toàn diện cho tất cả các dân tộc. Đảng khẳng định vai trò chiến lược của công tác dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước, nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, và các chương trình giảm nghèo bền vững tại các vùng này.
Các văn kiện của Đảng qua từng kỳ Đại hội không chỉ đặt mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng mà còn nhấn mạnh việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách an sinh xã hội dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược mà còn là minh chứng cho sự cam kết mạnh mẽ của Đảng trong việc thực hiện công bằng xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập của toàn dân tộc. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng khẳng định “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ cùng phát triển. Thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội, vươn lên thoát nghèo và giảm nghèo đa chiều bền vững”[6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh với phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam (Ảnh tư liệu)
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo từ các kỳ Đại hội, chủ trương về công tác đảm bảo an sinh xã hội cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số của Đảng đã được cụ thể hóa qua nhiều đề án, chương trình và chính sách lớn. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn văn hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình hình kinh tế - xã hội tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục có những chuyển biến tích cực và khá toàn diện, đời sống xã hội và các hoạt động kinh tế, sản xuất, tiêu dùng của đồng bào được duy trì ổn định, phát triển. Các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2025, các chương trình này góp phần chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất là việc giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, đến hết ngày 31/12/2024, tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt bình quân 3,4%, dự kiến cả giai đoạn đạt 3,2%, vượt so với mức mục tiêu trên 3% kế hoạch giao. Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số và miền núi cũng có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt bình quân 42,7 triệu đồng , tăng 3,3 lần so với năm 2020. Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát được triển khai mạnh mẽ, đến ngày 19/6/2025, cả nước đã hỗ trợ xóa được 262.843 căn, đạt 94,7% nhu cầu (277.420 căn), trong đó 224.854 căn đã khánh thành[7].
Công tác giáo dục tiếp tục được quan tâm sâu sắc: 5/5 chỉ tiêu về công tác giáo dục trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt và vượt mục tiêu đề ra.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là phòng chống dịch bệnh và tiêm vắc xin, được triển khai tốt. Chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi và cấp thuốc miễn phí cũng được quan tâm. Nhóm mục tiêu tăng cường công tác y tế để đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại cũng đạt 3/4 chỉ tiêu đề ra. Các hoạt động văn hóa, thông tin ý nghĩa được tổ chức sôi nổi, thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; 2/2 chỉ tiêu về bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong Chương trình mục tiêu quốc gia đã đạt và vượt kế hoạch. Chính sách hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2020-2025 đã góp phần nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong nhiều lĩnh vực.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, trong hơn 80 năm trở thành Đảng cầm quyền, Đảng luôn hoạch định và lãnh đạo thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ sự lãnh đạo kiên định và nhất quán của Đảng, nhiều chương trình và chính sách đã được triển khai thành công, mang lại những thành tựu to lớn trong việc nâng cao đời sống của đồng bào. Các chương trình phát triển hạ tầng, giáo dục, y tế và giảm nghèo bền vững như Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã góp phần cải thiện điều kiện sống và tạo động lực phát triển cho đồng bào.
Với tầm nhìn chiến lược và các mục tiêu cụ thể cho năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục là động lực quan trọng để đưa vùng dân tộc thiểu số và miền núi vượt qua những thách thức, phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, miền, sẽ giúp vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển toàn diện, bền vững và hội nhập sâu rộng vào sự phát triển chung của cả nước.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4 , tr 249-250.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4 , tr 155.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9 , tr 443.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7 , tr 496.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr 40.
