Trong giai đoạn 1954-1965, miền Bắc bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng. Đảng Lao động Việt nam chủ trương xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, trong đó có xây dựng Đảng trong quân đội
Từ cuối năm 1954, trong bối cảnh miền Bắc có hòa bình, trong quân đội xuất hiện nhiều tư tưởng lệch lạc, chủ yếu là tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, thắc mắc, lo lắng gia đình, không an tâm học tập và công tác. Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 18 - CT/TW ngày 08/5/1955 về củng cố quân đội, củng cố quốc phòng.
Chỉ thị đề ra các biện pháp để tăng cường xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, trong đó có nhiệm vụ tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị đối với quân đội. Chỉ thị nêu rõ: “Nhiệm vụ củng cố quân đội, củng cố quốc phòng trong giai đoạn hiện nay vô cùng quan trọng. Muốn thực hiện được nhiệm vụ đó trước tiên phải giải quyết những nhận thức và tư tưởng trở ngại, chủ yếu là phải giáo dục tư tưởng của nhân dân và phải lãnh đạo tư tưởng cho bộ đội, vì quân đội ta là quân đội của nhân dân, lấy giáo dục chính trị, giáo dục tư tưởng làm cơ sở"[1].
Tiếp đó, ngày 12/02/1957, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 05 - CT/TW về vấn đề phát triển Đảng.
Chỉ thị nêu rõ chủ trương của Đảng là đi đôi với việc tăng cường củng cố đảng, cần phải tiếp tục tiến hành việc phát triển đảng một cách thường xuyên để mở rộng đội ngũ của Đảng[2].
Phương châm phát triển đảng là thận trọng, có chuẩn bị, có trọng điểm, chú trọng chất lượng hơn số lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố, phải có lãnh đạo chặt chẽ.
Hướng phát triển Đảng trong các giai cấp công nhân, bần cố nông và trung nông, quân nhân cách mạng. Hướng vào “quân nhân cách mạng (kể cả quân nhân trong bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương): vì quân đội là lực lượng trụ cột để bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ Đảng”[3].
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12, tháng 3/1957 nêu rõ chủ trương xây dựng quân đội miền Bắc trở thành Quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy hiện đại.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong quân đội. Hội nghị khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là “bảo đảm căn bản cho quân đội ngày càng lớn mạnh và chiến thắng quân thù. Tách rời sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có quân đội nhân dân và thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”[4].

Chủ tịch Hồ Chí Minh với bộ đội tên lửa, ngày 24/3/1966 (Ảnh tư liệu)
Công tác chính trị là biểu hiện cụ thể của sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Công tác chính trị trong quân đội tức là của Đảng, vì việc Đảng lãnh đạo quân đội về tư tưởng và chính trị, việc xây dựng tổ chức Đảng và công tác Đảng là nội dung chính của công tác chính trị. Nhiệm vụ cơ bản của công tác chính trị là quán triệt sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và đường lối, chính sách của Đảng để giáo dục bộ đội, nâng cao giác ngộ chính trị của mọi người trong toàn quân, do đó mà cũng cố sự đoàn kết trong và ngoài quân đội, củng cố và nâng cao ý chí chiến đấu, bảo đảm cho quân đội ta thắng lợi trong chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong việc xây dựng chính quy hóa và hiện đại hóa có một ý nghĩa quan trọng vào bậc nhất, có một tác dụng quyết định. Cần tăng cường giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng cho bộ đội cán bộ và chiến sĩ. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường công tác chính trị, cần phải kiện toàn chế độ Đảng ủy, tăng cường tác dụng lãnh đạo tập thể của Đảng, thực hiện chế độ thủ trưởng phân công phụ trách dưới sự lãnh đạo tập thể và thống nhất của Đảng ủy. Cần nghiên cứu quy định và thi hành điều lệ công tác Đảng ủy và điều lệ công tác chính trị trong quân đội[5].
Đến cuối năm 1956, tỷ lệ đảng viên trong quân đội chiếm 37,6%. Nghị quyết Hội nghị kết luận: công tác Đảng cần phải được tăng cường hơn nữa mới đảm bảo được sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội. Về công tác chính trị và công tác Đảng, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng, tăng cường công tác xây dựng Đảng, tăng cường công tác văn hóa để nâng cao tư tưởng và lập trường của cán bộ và chiến sĩ, dần dần nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ văn hóa của bộ đội.Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, tiến hành chỉnh huấn chính trị trong toàn quân[6].
Ngày 10 tháng 6 năm 1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 32- CT/TW về vấn đề tổ chức Đảng ở các Quân khu, Tỉnh đội và vấn đề quan hệ giữa các cấp ủy đảng trong quân đội đối với các cấp ủy Đảng ở địa phương. Chỉ thị đã quy định những mối quan hệ về mặt công tác Đảng giữa hệ thống dọc trong quân đội cũng như giữa hệ thống ngang giữa các tổ chức Đảng trong quân đội và tổ chức Đảng địa phương. Theo đó, các tổ chức đảng trong quân đội chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng cấp trên. Đối với tổ chức Đảng địa phương thì tổ chức đảng trong quân đội chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đảng địa phương.
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam. Nhiệm vụ xây dựng quân đội, trong đó có công tác Đảng, công tác chính trị càng được Trung ương Đảng chú ý.
Ngày 25/2/1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 12- NQ/TW về cuộc vận động chính huấn mùa xuân 1961, tiến hành chỉnh huấn trong toàn Đảng toàn quân toàn dân miền Bắc những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nghị quyết của Bộ chính trị số 30-N Q/TW ngày 13/11/1961 về một số vấn đề tổ chức đảng trong quân đội nêu rõ: sau khi miền Bắc được giải phóng, tổ chức đảng trong quân đội được xây dựng theo Nghị quyết số 19 năm 1955, Chỉ thị số 32 năm 1957 và Chỉ thị số 198 năm 1960 của Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình mới, đã nảy sinh nhiều vấn đề và Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết này để tiếp tục lãnh đạo công tác xây dựng đảng trong quân đội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Đoàn Không quân Sao Đỏ, tháng 02/1967 (Ảnh tư liệu)
Trong nghị quyết này, Trung ương Đảng quy định việc thành lập các cấp ủy đảng ở đơn vị lữ đoàn, cấp ủy đảng ở các binh chủng, quân chủng trực thuộc Bộ quốc phòng, tổ chức Đảng ở các tỉnh đội, thành đội, tổ chức Ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng trong quân đội. Đây là một nghị quyết quan trọng trong kế hoạch xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại 5 năm lần thứ hai (1961-1965) do Bộ Quốc phòng, Tổng Quân ủy xây dựng.
Nét mới trong nghị quyết này làm nếu như trước đây ở các tỉnh đội, thành đội tổ chức Đảng ủy thì nay chỉ tổ chức Ban cán sự trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy. Ban cán sự chịu sự lãnh đạo của tỉnh ủy, thành ủy đồng thời chịu sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cấp trên trong quân đội. Đồng thời, nét mới lần này là tổ chức hệ thống Ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng trong quân đội để tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1962, Trung ương Đảng phát động cuộc vân động xây dựng chi bộ 4 tốt trong toàn Đảng bộ miền Bắc. Đảng bộ quân đội cũng tích cực hưởng ứng cuộc vận đồng này, đồng thời với phong trào thi đua Ba Nhất trong quân đội được phát động năm 1961.
Tại Đại hội Liên hoan Chiến sỹ thi đua toàn quân, tháng 7/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương các phong trào thi đua và khẳng định:
“Công nhân phất cao ngọn cờ Duyên Hải,
Nông dân phất cao ngọn cờ Đại Phong,
Quân đội anh hùng phất cao ngọn cờ 'Ba nhất,'
Công, nông, binh đại thi đua, đại đoàn kết,
Chủ nghĩa xã hội nhất định đại thành công, Bắc-Nam nhất định sẽ thống nhất non sông một nhà!”[7].
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.16, tr. 292.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr. 40.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr. 43-44.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr. 228.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr. 228-230.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.243-244.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr. 157.
