Theo quy định của hiệp định Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp có thời gian 300 ngày (22/7/1954-17/5/1955) để ngừng bắn, tập kết chuyển quân, tiến hành trao trả tù binh, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Quy Nhơn, Bình Định trở thành nơi tập trung quân đội ta ở miền Trung tập kết ra Bắc, đã trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết và khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam
Liên khu ủy V và Tỉnh ủy Bình Đình tăng cường lãnh đạo công tác tập kết, chuyển quân
Trong 9 năm kháng chiến, Liên khu V có vùng tự do rộng lớn. Đầu tháng 7/1954, Trung ương Đảng cử đồng chí Nguyễn Duy Trinh vào truyền đạt nghị quyết của Bộ Chính trị, cùng Liên khu ủy lãnh đạo công tác thi hành hiệp định.
Ngày 17/7/1954, tại Quy Nhơn, đồng chí đã gặp Bí thư Trung ương Cục miền Nam Lê Duẩn, thống nhất kế hoạch thi hành hiệp định tại Nam Trung Bộ. Sau đó, đồng chí đã tham dự Hội nghị mở rộng của Liên khu ủy, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa II); trong ba công việc cấp bách phải làm ngay do Hội nghị đề ra có nhiệm vụ: Biên chế lại và tổ chức lực lượng vũ trang thành các sư đoàn, trung đoàn để biểu dương chiến thắng và chuyển quân theo đúng kế hoạch.
Sau Hội nghị, ngày 29/7/1954 và 30/7/1954, Khu ủy đã tổ chức hai đoàn đi cực Nam Trung Bộ, tiến hành làm công tác tư tưởng và cùng các địa phương triển khai kế hoạch chuyển quân tập kết cũng như bố trí, sắp xếp người ở lại.
Tiếp đó, ngày 18/10/1954, tại thị trấn Đập Đá (An Nhơn, Bình Định), Liên khu ủy V triệu tập hội nghị, đánh giá tình hình, đề ra những công tác cấp bách nhằm lãnh đạo quân và dân toàn Liên khu đấu tranh chống lại mọi hành động phá hoại của kẻ thù, giữ gìn lực lượng cách mạng, củng cố tổ chức, cơ sở, tiến hành chuyển quân tập kết.
Liên khu ủy đã tăng cường đồng chí Mai Dương vào Tỉnh ủy Bình Định; đồng thời đưa 2 đoàn cán bộ do đồng chí Võ Chí Công, Thường vụ Liên khu ủy và đồng chí Huỳnh Lắm, Khu ủy viên về giúp Đảng bộ Bình Định tiến hành các công tác tổ chức tập kết[1].
Đối với Bình Định, 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp là tỉnh tự do của vùng tự do Liên khu V, nhưng theo các điều khoản của Hiệp định Geneva, sẽ phải giao lại cho đối phương quản lý; chính quyền và quân đội cách mạng tập kết ra miền Bắc. Do vậy, tỉnh Bình Định trở thành khu vực 300 ngày và Cảng Quy Nhơn là địa điểm duy nhất để tập kết các lực lượng trong Liên khu tập trung, chuẩn bị lên tàu ra Bắc.
Số lượng người đi rất lớn bao gồm toàn bộ lực lượng vũ trang, phần lớn cán bộ, các đội thanh niên xung phong, một số gia đình cán bộ, con em cán bộ và học sinh do gia đình gửi ra miền Bắc học tập với điều kiện tự đài thọ chi phí và một số gia đình đồng bào quê ở ngoài Bắc xin hồi hương…Riêng tỉnh Bình Định là 10.700 người[2] đi tập kết. Xác định tập kết các lực lượng vũ trang, chính trị ra Bắc là nội dung chủ yếu của thi hành Hiệp định Genevavà là công tác lớn, rất quan trọng của tỉnh Bình Định và Liên khu V, do vậy, tỉnh ủy yêu cầu tổ chức chặt chẽ và tinh thần trách nhiệm cao của các ngành, các cấp.
Thực hiện kế hoạch, Tỉnh ủy Bình Định đề ra chương trình 300 ngày với 4 nhiệm vụ: Mở sinh hoạt chính trị nhằm ổn định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; tiếp đón và sắp xếp số người được trao trả, sắp xếp; tổ chức cho những người đi tập kết, đồng thời chăm sóc, giúp dân ổn định cuộc sống để dân thấy rõ chính quyền cách mạng có trách nhiệm với dân đến phút cuối cùng, củng cố lòng tin đối với cách mạng; phân công tỉnh ủy thành hai bộ phận chỉ đạo, một bộ phận để điều hành các công việc công khai cho đến khi ra tập kết, một bộ phận lo công tác tổ chức bí mật của Đảng, công tác cán bộ, đảng viên bám trụ lại hoạt động bất hợp pháp với địch.

Kilinski - con tàu góp công lớn nhất trong việc chuyển vùng tập kết đồng bào, chiến sĩ miền Nam ra Bắc năm 1954-1955 (Ảnh tư liệu)
Tỉnh ủy chỉ định một số cán bộ do một đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy lãnh đạo, đặc trách việc xem xét, sắp đặt số người đi, các chuyến đi theo yêu cầu công tác và việc bàn giao từng phần quyền quản lý cho đối phương theo kế hoạch đã thỏa thuận: Ngày 19/3/1955, bàn giao đến Bắc sông Lại Giang, gồm cả An Lão; ngày 28/4/1955, bàn giao đến Bắc sông La Tinh (Phù Ly); ngày 12/5/1955, bàn giao ở phía Tây đến Đồng Phó, phía Bắc đến Đập Đá; ngày 16/5/1955, bàn giao đợt cuối đến Quy Nhơn, toàn bộ lực lượng ta xuống tàu, hoàn thành việc chuyển quân tập kết.
Dấu ấn tập kết, chuyển quân ở Quy Nhơn, Bình Định[3]
Quá trình tập kết ra Bắc là một sự kiện quân sự mang tầm chiến lược đối với cả hai miền Nam - Bắc, bởi đây chính là một bước chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài, nhằm tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vì hoà bình, tự do thống nhất, đồng bào, chiến sĩ miền Nam đã hy sinh vì nghĩa lớn, để hướng tới mục tiêu chung lớn lao, cao cả của toàn dân tộc. Đây là một thành công, nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong bối cảnh lúc bấy giờ, không những thắng lợi về số lượng con người, vật chất vận chuyển tập kết mà đó còn là thành công về mặt tinh thần, tư tưởng, để người ra đi trong vinh quang và ở lại kiên cường, chiến đấu anh dũng.
Việc lựa chọn đồng bào chiến sĩ đi tập kết là một việc rất khó khăn. Về tâm tư, tình cảm, ai cũng nghĩ là thắng lợi rồi. Chúng ta được hưởng hòa bình và được sống, được yên ổn để làm ăn trên mảnh đất của chính quê hương mình. Tuy nhiên, việc đó không dễ. Và đặc biệt, lợi dụng chuyển quân tập kết, địch sẽ trà trộn, cài cắm người vào trong hàng ngũ của chúng ta. Vậy nên việc lựa chọn đồng bào, chiến sĩ chuyển quân tập kết là một vấn đề hết sức hệ trọng. Những người có thể đào tạo phục vụ sự nghiệp cách mạng lâu dài thì được chuyển đi, lực lượng ở lại bám địa bàn để kháng chiến. Mỗi thế hệ người dân Việt Nam lúc đó xác định rất rõ, tập kết không phải ra Bắc, tạm xa miền Nam là để sẻ chia đất nước, mà là thực hiện nhiệm vụ, vì mục tiêu mai này đất nước được thống nhất, non sông liền một dải. Khẩu hiệu “Đi thì vinh quang, ở lại thì anh dũng” đã thể hiện một khát vọng hòa bình, một quyết tâm thống nhất giang sơn và niềm tin tất thắng không có gì có thể lay chuyển được của dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Nam đã chấp hành tuyệt đối sự phân công, điều động của tổ chức với tinh thần đi hay ở đều là nhiệm vụ. Tại Quy Nhơn, tháng 10/1954, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị quân đội cùng gia đình, hậu phương gấp rút chuẩn bị lên đường tập kết ra Bắc với phương châm: Đi tập kết là để trở về, là để ngày thống nhất nước nhà, ta lại gặp nhau giữa quê hương giải phóng. Mỗi bước chân lên tàu là một lời thề thầm lặng, nhưng kiên định, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chờ ngày non sông thu về một mối.

Bia di tích địa điểm chuyển quân tập kết ra Bắc tại Quy Nhơn, công trình được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 24/12/2007
Với vai trò là nơi chuyển quân tập kết ra Bắc, nhân dân Quy Nhơn đã đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc men và các nhu yếu phẩm cần thiết để phục vụ cho bộ đội trong quá trình di chuyển ra Bắc. Nhiều người dân đã dùng ghe, thuyền, xe thô sơ hoặc trực tiếp gánh vác hành lý, vũ khí để giúp bộ đội di chuyển ra cảng hoặc nơi tập kết. Ngoài ra, Quy Nhơn sẵn sàng bố trí chỗ ở và nơi tập kết tạm thời. Người dân sẵn sàng nhường nhà cửa, lập các điểm tập kết tạm thời, nơi ăn ở cho bộ đội trong thời gian chờ đợi tàu di chuyển ra Bắc. Trong hoàn cảnh chính trị phức tạp, nhân dân Quy Nhơn đã tích cực bảo vệ an toàn cho các đơn vị quân đội, không tiết lộ thông tin cho đối phương, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng rút lui an toàn. Bằng tình cảm sâu sắc, người dân Quy Nhơ đã tạo động lực tinh thần lớn cho bộ đội tiếp tục chiến đấu ở miền Bắc và giữ vững lý tưởng cách mạng.
Có thể thấy, những đóng góp của nhân dân Quy Nhơn à một minh chứng cho sự gắn bó quân – dân trong cuộc kháng chiến; là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết Bắc Nam; thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí của mỗi người dân Việt Nam, họ sẵn sàng hy sinh bản thân, gia đình, đoàn kết một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, dũng cảm trong xây dựng và chiến đấu ở mọi thời kỳ cách mạng của dân tộc, cống hiến vì sự nghiệp chung của đất nước, góp phần viết nên những trang sử oanh liệt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Với tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, cuộc tập kết, chuyển quân tại Cảng Quy Nhơn, Bình Định năm 1954 là hình ảnh sống động về sự đoàn kết quân dân, sự hy sinh thầm lặng mà vĩ đại, trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, của tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí quyết tâm, thống nhất của quân dân ta, ra đi vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp cách mạng cao cả vẫn luôn sáng ngời.
Cảng Quy Nhơn không chỉ đơn thuần là điểm xuất phát của những chuyến tàu tập kết mà còn là chứng nhân cho những giây phút lịch sử của dân tộc. Những chiến sĩ, những người mẹ, người vợ, người con… tất cả đều hòa chung nhịp đập yêu nước, gửi gắm niềm tin vào tương lai hòa bình, độc lập. Khúc tráng ca chuyển quân tập kết tại cảng Quy Nhơn mãi mãi khắc ghi trong tâm khảm bao thế hệ người Việt Nam, như một minh chứng cho lòng yêu nước bất diệt, cho ý chí quật cường và niềm tin sắt đá vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
[1] Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: 300 ngày đấu tranh, thi hành Hiệp định Giơnevơ (7/1954 – 5/1955), Đề tài khoa học, Lưu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, tr 118
[2] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định, Lịch sử Đảng bộ tỉnh BÌnh Định (1945-1954), Tháng 4/2018, tr 184
[3] Từ ngày 30/6/2025, Bình Định và Gia Lai sáp nhập thành tỉnh mới Gia Lai
