Quảng Ninh, vùng đất địa đầu Đông Bắc Tổ quốc, không chỉ giữ vị trí chiến lược về quốc phòng – an ninh mà còn là nơi hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc. Trong đó, đền Xã Tắc tại thành phố Móng Cái là một di tích lịch sử – văn hóa quan trọng, lắng đọng truyền thống thờ Thần Đất và Thần Lúa của cư dân nông nghiệp, đồng thời thắp sáng ngọn lửa yêu nước, khẳng định chủ quyền quốc gia vùng biên viễn.

Quang cảnh một nghi lễ tế thần đền Xã Tắc. Ảnh: baoxaydung.com.vn
Được ví như “cột mốc văn hóa” nơi địa đầu Tổ quốc, đền Xã Tắc là một di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng tọa lạc tại phường Móng Cái 2, tỉnh Quảng Ninh. Đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV. Khi khởi dựng, đền chỉ là một am nhỏ nằm bên bờ Thác Mang (tên gọi xưa của nhánh chính sông Ka Long), nơi sát biên giới Việt – Trung, cửa ngõ quan trọng mở ra vùng đất phía Đông Bắc của Tổ quốc.
Ban đầu, đền thờ thần Xã Tắc (Xã là thần Đất, Tắc là thần Lúa), các vị thần biểu trưng cho đất đai, mùa màng và sự phồn vinh của cư dân nông nghiệp xưa. Đất và lúa là hai yếu tố rất quan trọng trong văn minh nông nghiệp, tác động lớn đến nền kinh tế cũng như sự ổn định, thịnh vượng của quốc gia. Chính vì ý nghĩa đó nên Xã Tắc luôn gắn liền với Quốc gia, có ý nghĩa như Quốc gia. Có thể nói, thần Xã Tắc không chỉ bảo trợ cho mùa màng mà còn là hiện thân của khát vọng ổn định, bền vững và thịnh vượng. Các triều đại phong kiến thường xây dựng đàn Xã Tắc ở Kinh đô. Vào đầu năm mới, vua đích thân làm chủ tế, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an, dân khang vật thịnh.
Việc hình thành đền Xã Tắc ở xa kinh đô là điểm rất đặc biệt. Điều đó cho thấy triều đình rất coi trọng việc khẳng định chủ quyền và chăm lo đời sống cho nhân dân ở những khu vực trọng yếu, nơi biên giới xa xôi. Việc xây dựng đền Xã Tắc vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng địa phương vừa thể hiện sự nhạy bén và tầm nhìn chiến lược trong việc quản lý lãnh thổ của triều đình phong kiến khi kết hợp yếu tố tâm linh với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sự xuất hiện của đền Xã Tắc đồng thời củng cố sự gắn kết cộng đồng, giữ vững bình yên cho vùng biên cương.
Vào đầu thế kỷ XX, am thờ xưa đã bị nước cuốn trôi trong một cơn bão lớn. Tương truyền, ban thờ và bát nhang dạt vào gò đất cao vùng Xoáy Nguồn. Tại đây, ngôi đền được dựng lại khang trang hơn trước. Đây cũng là thời điểm đánh dấu bước chuyển lớn của đền Xã Tắc khi có sự hiện diện của những nhân vật được phụng thờ. Đó là Cao Sơn Đại Vương, vị thần giúp Vua Hùng xây dựng nước Văn Lang. Đó là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, người anh hùng dân tộc, vị tướng tài được vua cắt cử trấn giữ vùng biên ải phía Đông Bắc. Ngoài ra, đền cũng thờ các vị long thần, thổ địa bản thôn, các vị tiên công của những dòng họ có công khai khẩn vùng đất này.

Lễ Xã Tắc là nghi lễ quan trọng nhất trong ngày hội. Ảnh: baodantoc.vn
Đến nay, đền Xã Tắc được nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Năm 1879, đền được trùng tu lớn và dựng bia “Trùng tu”. Văn bia kể rõ việc sửa sang, xây dựng lại đền và nội dung lễ hội, những nghi lễ của lễ hội. Trải qua những sự biến của chiến tranh, thiên tai, ngôi đền đã bị tàn phá nhiều lần nhưng bia cổ vẫn còn nguyên vẹn. Bia là tư liệu quan trọng để chính quyền địa phương và nhân dân phục dựng lại những nghi lễ xưa của lễ hội đền Xã Tắc vào năm 2018. Từ đó đến nay, lễ hội đền Xã Tắc trở thành sinh hoạt văn hóa mang đậm đặc trưng riêng của địa phương, nối tiếp mạch nguồn văn hóa của cha ông.
Vào dịp giữa Xuân (ngày cuối cùng của tháng Giêng và ngày đầu tiên của tháng Hai - Âm Lịch), người dân lại nô nức tổ chức lễ hội để tri ân thần linh, tưởng nhớ các bậc tiền nhân và gửi gắm ước vọng về một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, quốc thái dân an. Các lễ chính trong lễ hội bao gồm: lễ Cáo Yết (bố cáo thần linh), lễ Cấp Thủy (lấy nước thiêng), lễ Mộc Dục (tắm tượng), lễ Nghinh Thần (rước thần du xuân), lễ An vị, lễ tế Xã Tắc, lễ Cúng chúng sinh, lễ Xuất Tịch. Các lễ được dẫn dắt bởi Chủ tế, người đại diện cho cộng đồng yết cáo thần linh, bày tỏ lòng thành kính trước các vị thần và bậc tiền nhân. Chủ tế không chỉ am hiểu lễ nghi mà còn phải có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp để làm tròn sứ mệnh kết nối trời đất với lòng người.
Trong các nghi lễ truyền thống của lễ hội, lễ Cấp Thủy có ý nghĩa đặc biệt. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nước là ngọn nguồn của sự sống, là hiện thân của sự trong sạch, có khả năng gột rửa cái cũ, đón cái mới tốt đẹp. Nước cũng có ý nghĩa cho sự mở đầu, sinh sôi và tái tạo. Lễ Cấp Thủy là lấy nước nơi trong sạch nhất trên dòng Ka Long đưa về đền. Đối với người dân nơi đây, Ka Long không chỉ là dòng sông phân định biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà còn được tôn là ngọn nguồn của sự sống. Lễ Cấp Thủy được thực hiện bằng cả đường thủy và đường bộ. Đoàn rước được tổ chức long trọng, trang nghiêm với kiệu, lọng chỉnh tề di chuyển đến bờ sông Ka Long, sau đó lên thuyền (được trang trí rực rỡ cờ, hoa) tiến đến ngã ba Xoáy Nguồn (nơi dòng Ka Long phân thành 2 nhánh Bắc Luân và Ka Long) để thực hiện nghi thức lấy nước. Những chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, được tuyển chọn kỹ lưỡng đảm nhận nhiệm vụ rước nước về đền. Đoàn rước đi qua những con phố trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã và sự thành kính của cả cộng đồng. Lễ Cấp thủy và rước nước cho thấy dấu ấn của tín ngưỡng thờ nước - một tín ngưỡng đặc biệt quan trọng của cư dân nông nghiệp, thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Lễ Cấp Thủy và rước nước trong lễ hội đền Xã Tắc là nét văn hóa độc đáo, đặc sắc, thể hiện sự hướng về nguồn cội, nhắc nhở các thế hệ giữ gìn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, bảo vệ dòng sông, bảo vệ nguồn sống.

Lễ rước thần du xuân qua các cung đường của thành phố Móng Cái. Ảnh: Internet
Những giọt nước trong lành nhất từ dòng Ka Long được rước về đền trở thành nước thiêng để làm các nghi lễ tiếp theo trong lễ hội, đặc biệt là lễ Mộc Dục. Tại trung tâm ngôi đền, lễ Mộc Dục, lễ Nghinh Thần và tế đàn Xã Tắc... lần lượt được cử hành trang trọng, thành kính. Trong không khí linh thiêng, tiếng nhạc lễ vang lên hòa cùng với lời tế trầm hùng vang rền giữa núi sông làm sống lại khúc tráng ca của quê hương, đất nước. Khúc tráng ca đó đã vượt thời gian kết nối quá khứ với hiện tại, nhắc nhở thế hệ hôm nay tiếp tục trân trọng, giữ gìn từng tấc đất quê hương, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, giữ yên bờ cõi quốc gia. Với ý nghĩa đó, đền Xã Tắc đã vượt ra phạm vi thờ thần của một làng, một khu vực và trở thành ngôi đền thờ thần non sông, đất nước.
Lễ hội đền Xã Tắc không chỉ có những nghi lễ diễn ra trong khuôn viên của đền mà còn diễn ra trên dòng sông Ka Long, trên khắp các con phố. Tiếng trống hội vang vọng giữa miền biên viễn đã đánh thức cả đất trời, khơi dậy hồn thiêng sông núi, gợi nên khí thế hào hùng của dân tộc. Từng đoàn người nối dài trong trang phục truyền thống, cờ hoa rực rỡ sắc màu đã tô điểm cho vùng đất biên cương những sắc màu tươi vui, làm tăng thêm không khí linh thiêng, trang trọng nhưng cũng vô cùng phấn khích, hân hoan, rộn ràng của lễ hội.
Trong khuôn khổ của lễ hội còn có chương trình văn nghệ dân gian, các trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt đập niêu, kéo co, đẩy gậy, đi cầu kiều, cờ tướng, viết thư pháp… Bên cạnh đó cũng có các hoạt động như thi đấu bóng chuyền hơi, giao lưu tiếng hót chim chào mào, vẽ tranh... Phần hội cũng góp phần quan trọng làm tăng tính cộng đồng, làm sống dậy những giá trị văn hóa truyền thống, sự náo nức trong mỗi người dân và du khách đến với lễ hội.
Ngày nay, đền Xã Tắc với lễ hội mùa xuân vẫn mang đậm giá trị văn hóa truyền thống. Lễ hội là nơi gửi gắm mong ước của người dân về mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và niềm tin, ước vọng về sự phồn vinh, hạnh phúc. Đặc biệt, sự hiện diện của ngôi đền vừa khẳng định chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực văn hóa, tạo nên nét văn hóa riêng nơi miền biên cương vừa âm thầm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
