Tư tưởng “lấy dân làm gốc” không chỉ là một giá trị đạo lý, mà còn là một nguyên lý chính trị cốt lõi, đã góp phần kiến tạo nên sự bền vững của nhiều triều đại và để lại dấu ấn sâu đậm trong cách trị quốc an dân của các quốc gia Á Đông

Việt Nam không chỉ tiếp thu tư tưởng này từ văn hóa phương Đông mà còn được phát triển thành bản sắc dân tộc. Điều này đã được chứng minh qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải trải qua nhiều cuộc kháng chiến trường kỳ để bảo vệ độc lập, chủ quyền như Việt Nam. Từ những phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc, đến ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên của nhà Trần, cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược thời nhà Lê, rồi phong trào Tây Sơn đánh bại quân Thanh, hơn 80 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước... đã thể hiện rõ điều đó.

Đến Chủ tịch Hồ Chí Minh , Người đã kết tinh giữa trí tuệ phương Đông và tinh thần cách mạng phương Tây - đã kế thừa sâu sắc tinh thần “lấy dân làm gốc” của văn hóa phương Đông, đồng thời phát triển nó trên nền tảng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Người từng viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” và khẳng định: “Nước lấy dân làm gốc…. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[1]. Và đặc biệt, nếu như các nhà tư tưởng phương Đông coi dân là “gốc” theo nghĩa đạo đức trị quốc, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng dân lên thành chủ thể cách mạng, là người làm nên lịch sử, là người chủ của đất nước, và là người trao quyền lực cho Đảng, Nhà nước. “Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”[2].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân không chỉ dừng lại ở sự quan tâm, chăm lo cho dân mà còn là: Dựa vào dân để cách mạng; Vì dân mà chiến đấu, mà xây dựng đất nước; Học ở dân để đổi mới; Dân có quyền bãi miễn chính phủ không vì dân; Đảng tồn tại là vì dân, do dân, gắn bó máu thịt với dân. Đặc biệt, trong thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Người là gốc rễ, là cơ sở, nền tảng hình thành đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, độc đáo, sáng tạo, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những luận điểm cốt lõi về “lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Dân là chủ và dân làm chủ: Người nhấn mạnh, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ và dân làm chủ, nghĩa là mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì dân, mọi công việc đều do dân. Người khẳng định, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trên thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân.

Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân: Tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính phủ là đầy tớ của dân, không phải là quan trên dân”.

Dân là gốc của sức mạnh kháng chiến và kiến quốc: Trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kháng chiến nhất định thắng lợi vì có dân theo”.

Cán bộ là công bộc của dân: Người răn dạy, “Cán bộ phải thật sự là đầy tớ trung thành của nhân dân, không được lên mặt làm quan cách mạng”. Một khi “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”[3].

Phê phán tư tưởng xa dân, coi thường dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra: “Đảng viên mà không gần dân, không hiểu dân thì dễ mắc sai lầm; dân không tin thì cách mạng thất bại”.

Tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên hai phương diện cơ bản: 1- Mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Bởi lẽ, nhân dân là người chủ thực sự của đất nước, là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, chủ thể sáng tạo lịch sử; là lực lượng quyết định sự thành bại của cách mạng; 2- Phát huy trách nhiệm của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Người yêu cầu mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên phải gần dân, lắng nghe dân, thấu hiểu dân để đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân và tổ chức, lãnh đạo, động viên nhân dân thực hiện trong thực tiễn. Do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân không chỉ là sự kế thừa, sự cách mạng hóa khái niệm “dân vi bản”, mà còn tiếp tục nâng tầm, phát triển nó lên tầm cao mới: Dân là nguồn gốc của quyền lực chính trị và chính dân là chủ thể trao quyền cho Đảng. “Một Đảng mà không gắn bó với dân thì chẳng khác gì cây không có rễ, sông không có nguồn. Dân là gốc, là nước, là sự sống còn của Đảng”.

Đây là sự kế thừa giá trị phương Đông và tiếp tục phát triển trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đã trở thành giá trị trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

“Lấy dân làm gốc” là nguyên tắc tư duy và hành động của Đảng ngay từ ngày đầu thành lập

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn xác định vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đảng luôn coi nhân dân là nguồn gốc sức mạnh, là động lực to lớn để giành thắng lợi trong mọi cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã khẳng định: “Cách mệnh là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”, “Lấy dân làm gốc”. Điều này thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Đảng về vai trò của nhân dân trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đảng luôn lắng nghe, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng đã huy động được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, tạo nên những chiến thắng vang dội. Sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân là nền tảng vững chắc để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, ngay từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm là: “Làm cho nước Nam được độc lập, dân Nam được tự do, ai nấy được cơm no áo ấm, học hành”.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến, Đảng ta xác định nhân dân là yếu tố quyết định thành bại. Đảng lấy việc tổ chức, giác ngộ, phát huy lực lượng toàn dân làm mục tiêu xuyên suốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ là đội tiên phong dẫn đường”.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn nhấn mạnh đến vai trò to lớn, sức mạnh của nhân dân, coi nhân dân là trung tâm của sự phát triển

Tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), khi khởi xướng đường lối đổi mới, Đảng ta đã tổng kết các bài học kinh nghiệm; trong đó, có bài học quan trọng: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[4].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”[5]. Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, tư tưởng này tiếp tục được khẳng định đây quan điểm xuyên suốt "dân là gốc", Đảng vì dân phục vụ, và coi "hạnh phúc của nhân dân là thước đo" cho mọi hành động và quyết sách.

Điều này cho thấy, “lấy dân làm gốc” không phải khẩu hiệu, mà là nền tảng lý luận, là nguyên lý vận hành toàn bộ hệ thống chính trị và là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng đắn của mọi chính sách.

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 301-302

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 90

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 434

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đảng Toàn tập, t. 47, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 362

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. I, tr. 27-28