Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám khẳng định sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó, đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp to lớn

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, việc xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng không chỉ là một yêu cầu tất yếu về mặt quân sự, mà còn là biểu hiện sinh động của lòng dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó, đồng bào các dân tộc thiểu số đóng vai trò đặc biệt quan trọng, trở thành lá chắn vững chắc và hậu phương tin cậy của cách mạng Việt Nam.

Giữa núi rừng đại ngàn, nơi xa xôi, hiểm trở, đồng bào dân tộc thiểu số là người bảo vệ trung thành của các cơ quan đầu não cách mạng. Hàng ngàn đồng bào Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Chay… đã không quản hiểm nguy, sẵn sàng che giấu, bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…

Tại Pác Bó (Cao Bằng), đồng bào dân tộc Tày đã đón Bác Hồ như người thân trở về, che chở Người trong những ngày đầu về nước, giúp Người có điều kiện sống và làm việc an toàn. Sự bảo vệ ấy không chỉ là hành động, mà là biểu hiện của lòng tin tuyệt đối vào cách mạng, là sự lựa chọn của cả cộng đồng, cả bản làng, sẵn sàng hy sinh để giữ vững ngọn lửa đấu tranh.

Trong điều kiện chiến tranh khốc liệt, thiếu thốn trăm bề, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn nhường cơm sẻ áo, cung cấp lương thực, thực phẩm cho các cơ quan, đơn vị bộ đội. Những bó rau rừng, những gùi gạo, những con gà, con lợn… được mang đến từng lán trại, từng điểm đóng quân, không phải bằng mệnh lệnh, mà bằng tình thương và trách nhiệm.

Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Ảnh tư liệu lịch sử dựng lại)

Tại Cao Bằng, Bắc Kạn, đồng bào đã thường xuyên tiếp tế cho Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, bảo đảm cho lực lượng cách mạng có đủ điều kiện duy trì hoạt động. Họ không chỉ là người sản xuất, mà còn là người vận chuyển, người hậu cần, người tiếp tế – tất cả đều tự nguyện, âm thầm nhưng đầy hiệu quả. Chính sự tiếp sức ấy đã giúp cách mạng vượt qua những thời điểm khó khăn nhất, duy trì thế và lực để tiến tới tổng khởi nghĩa.

Đồng bào dân tộc thiểu số, với sự am hiểu địa bàn, thông thạo đường đi lối lại, đã trở thành mạch máu nối liền các căn cứ địa, các đơn vị cách mạng. Họ làm giao liên, đưa thư, truyền tin, dẫn đường cho cán bộ, bộ đội di chuyển, tránh sự truy lùng của địch. Nhiều thanh niên Tày, Nùng như Nông Văn Dền (bí danh Kim Đồng)[1]… đã trở thành những giao liên xuất sắc, vượt rừng, băng suối, mang theo những bức thư mật, những chỉ thị chiến lược, bảo đảm sự thông suốt trong chỉ đạo và hành động. Họ không chỉ dẫn đường, mà còn dẫn lối cho cách mạng, giúp cán bộ từ căn cứ địa về xuôi hoạt động an toàn, hiệu quả.

Tinh thần yêu nước của đồng bào dân tộc thiểu số đã thôi thúc họ hăng hái tham gia vào các đội quân cách mạng, trực tiếp cầm súng chiến đấu, trở thành lực lượng nòng cốt trong các đơn vị vũ trang và bán vũ trang cách mạng.

Ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Nguyên Bình, Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Trong đội hình 34 chiến sĩ đầu tiên, có đến 29 người là con em của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là Tày, Nùng[2].

Bên cạnh những tên tuổi được ghi vào sử sách, còn có hàng ngàn chiến sĩ vô danh - những đồng bào Tày, Nùng, Dao, Sán Chay… đã gia nhập các đơn vị vũ trang, tham gia chiến đấu trong các trận đánh nhỏ lẻ, quấy rối địch, bảo vệ căn cứ địa, làm giao liên, dẫn đường, vận chuyển vũ khí, lương thực. Họ không cần danh hiệu, không đòi hỏi vinh quang, chỉ cần được góp sức mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chính họ đã tạo nên thế trận toàn dân, toàn diện, giúp cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa thành công.

Song song với lực lượng vũ trang chính quy, các đội tự vệ, du kích và Cứu quốc quân tại các bản làng dân tộc thiểu số đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ làng bản, chống lại sự càn quét của địch, đồng thời phối hợp với các đơn vị chủ lực. Những đội du kích người Nùng ở biên giới, người Mông ở Hà Giang, người Dao ở Thái Nguyên… đã trở thành lực lượng tiến hành hiệu quả chiến tranh du kích.

Trong tiến trình chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, đấu tranh chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là phương thức huy động lực lượng quần chúng, làm suy yếu bộ máy thống trị của thực dân – phong kiến, đồng thời, tạo thế và lực cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, các tổ chức cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh như Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc... đã được thành lập và phát triển mạnh mẽ tại các vùng dân tộc thiểu số. Đây không chỉ là những tổ chức chính trị, mà còn là trung tâm đoàn kết, giác ngộ và hành động cách mạng của quần chúng.

Tại Cao Bằng, Lạng Sơn, các hội Nông dân cứu quốc thu hút đông đảo đồng bào Tày, Nùng tham gia, trở thành lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động và tổ chức các hoạt động đấu tranh. Những tổ chức này không chỉ giúp đồng bào hiểu rõ mục tiêu cách mạng, mà còn tạo điều kiện để họ trực tiếp tham gia vào quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, xây dựng chính quyền cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ I, ngày 3/12/1945 (Ảnh tư liệu)

Một trong những thành công lớn của cách mạng Việt Nam là việc giác ngộ chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Các cán bộ cách mạng, nhiều người là con em của chính đồng bào, đã thâm nhập từng bản làng, từng mái nhà sàn, để tuyên truyền về con đường cách mạng, vạch trần tội ác của thực dân, phong kiến, và khơi dậy lòng yêu nước, ý chí đấu tranh. Họ không chỉ mang theo lý tưởng, mà còn mang theo sự thấu hiểu văn hóa bản địa, từ đó tạo dựng niềm tin và sự gắn bó. Chính sự gần gũi ấy đã giúp cách mạng lan tỏa sâu rộng, biến từng bản làng thành pháo đài chính trị, từng người dân thành chiến sĩ cách mạng.

Khi thời cơ lịch sử đến, đặc biệt sau khi quân phiệt Nhật đầu hàng Đồng minh, đồng bào các dân tộc thiểu số đã đồng loạt nổi dậy, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân để giành chính quyền về tay nhân dân.

Tại Cao Bằng, ngay từ đầu năm 1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần đã diễn ra mạnh mẽ, giải phóng nhiều xã, huyện, xây dựng chính quyền cách mạng. Tại Chợ Chu (Thái Nguyên) và Chợ Rã (Bắc Kạn), đồng bào Dao, Tày đã tham gia tích cực vào các cuộc nổi dậy, phối hợp với bộ đội và cán bộ cách mạng để giành quyền làm chủ. Tại Thái Nguyên, ngày 20/8/1945, đồng bào dân tộc thiểu số đã cùng với bộ đội và nhân dân địa phương nổi dậy giành chính quyền tỉnh lỵ, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Cách mạng Tháng Tám. Tại các tỉnh miền núi khác như Hà Giang, Lào Cai, Tây Nguyên, đồng bào Mông, Êđê, Bana cũng tích cực nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng tại địa phương mình, thể hiện tinh thần chủ động, tự lực và ý chí quật cường.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là kết quả của sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là thành quả của sự đồng lòng, chung sức của toàn thể dân tộc Việt Nam, trong đó có vai trò quan trọng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ những vùng núi xa xôi, nơi địa hình hiểm trở và điều kiện sống khắc nghiệt, đồng bào đã không quản gian khó, góp sức người, sức của, xây dựng căn cứ địa cách mạng, nuôi giấu cán bộ, bảo vệ lực lượng khởi nghĩa. Sự tham gia tích cực của các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Dao, Thái, Ê Đê, Ba Na… đã tạo nên một lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho cách mạng. Trong thời khắc vận mệnh dân tộc đứng trước bước ngoặt, mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo, đều cùng nhau đứng lên giành độc lập dân tộc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó không chỉ là sự kiện chính trị trọng đại, đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là biểu tượng rực rỡ của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong khối đoàn kết ấy, đồng bào các dân tộc thiểu số đã đóng vai trò đặc biệt, trở thành lực lượng hậu thuẫn vững chắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng. Từ những vùng núi rừng xa xôi, hiểm trở, nơi địa hình khắc nghiệt và điều kiện sống còn nhiều thiếu thốn, đồng bào các dân tộc thiểu số đã không quản gian khó, sẵn sàng hy sinh, cống hiến sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng bào các dân tộc thiểu số là những người bảo vệ căn cứ địa cách mạng, nuôi giấu cán bộ; đồng thời, là những chiến sĩ kiên cường, dũng cảm, trực tiếp tham gia vào các đội du kích, lực lượng vũ trang, góp phần tạo dựng nên một nước Việt Nam độc lập.


[1] Kim Đồng (1929 - 1943) tên thật là Nông Văn Dền, một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở xóm Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Kim Đồng – người Đội trưởng đầu tiên của Đội nhi đồng cứu quốc. Với lòng gan dạ, dũng cảm, tấm gương hy sinh anh dũng của Kim Đồng đã được ghi vào lịch sử của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, trở thành một trong những anh hùng nhỏ tuổi của dân tộc.

[2] Cụ thể, dân tộc Tày: 19 chiến sĩ, dân tộc Nùng: 8 chiến sĩ, dân tộc Mông: 1 chiến sĩ, dân tộc Dao: 1 chiến sĩ; còn lại 5 chiến sĩ người dân tộc Kinh. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.