Trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta (1945-1954), Liên khu Việt Bắc giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là căn cứ địa cách mạng, mà còn là trung tâm lãnh đạo, chỉ huy và hậu phương lớn của cả nước, nơi quy tụ sức mạnh tổng hợp của quân và dân, bảo đảm cho cuộc kháng chiến trường kỳ đi đến thắng lợi hoàn toàn

Đóng góp sức người, sức của đưa kháng chiến đến thắng lợi

Ngay từ những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” đã trở thành phương châm hành động và là lời kêu gọi mạnh mẽ của Đảng và Chính phủ đối với quân và dân Việt Bắc. Đây là một khẩu hiệu không chỉ mang tính biểu tượng mà còn thể hiện sự quyết tâm của quân và dân Việt Bắc trong việc tham gia chiến đấu và bảo đảm hậu cần cho chiến trường.

Với tinh thần khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến, một “chiến dịch cầu đường” quy mô lớn đã được triển khai trên toàn Liên khu Việt Bắc. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể trong Liên khu tích cực tuyên truyền, vận động, huy động nhân dân cùng cán bộ, chiến sĩ công binh tham gia sửa chữa, bảo vệ hệ thống giao thông - những tuyến huyết mạch chi viện cho chiến trường.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhiều đoàn dân công hỏa tuyến gồm đủ mọi lứa tuổi, nam, nữ, già, trẻ từ khắp các vùng, các rẻo cao đã nô nức kéo về các tuyến đường số 1, số 3, ngày đêm miệt mài san lấp hố bom, tu sửa cầu cống, đảm bảo giao thông vận tải thông suốt.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhân dân các địa phương đã có nhiều sáng kiến, tự nguyện thành lập các “Tổ bảo vệ”, “Đội chủ lực sửa chữa cầu đường” nhằm kịp thời khắc phục thiệt hại, giữ vững giao thông trong mọi tình huống. Dân công Việt Bắc không chỉ là những người lao động, mà họ còn là những chiến sĩ trên mặt trận hậu phương, gùi thóc, gùi gạo, gánh muối, thồ đạn, kéo pháo ra mặt trận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân tại Đèo Khế, Thái Nguyên trên đường đi công tác, năm 1947 (Ảnh tư liệu)

Trong giai đoạn này, Liên khu Việt Bắc đã huy động một lượng lớn nhân lực, vật lực để phục vụ kháng chiến. Khi Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình (1951-1952) và Chiến dịch Tây Bắc (1952), nhiệm vụ bảo đảm hậu cần - vận tải - lương thực đặt ra vô cùng nặng nề đối với các tỉnh Liên khu Việt Bắc. Theo thống kê, tổng số lương thực và ngày công phục vụ hai chiến dịch lên tới “1.893 tấn gạo, 12.900.000 ngày công. Phần lớn số gạo và dân công do Việt Bắc, các tỉnh trung du cung cấp”[1].

Sau Chiến dịch Tây Bắc, nhiều vùng đất đai và vựa thóc quan trọng như Nghĩa Lộ, Than Uyên, Điện Biên Phủ được giải phóng, tạo nên một vùng căn cứ rộng lớn, nối liền khu tự do Việt Bắc với khu Tây Bắc, mở rộng căn cứ địa cách mạng và tạo điều kiện thuận lợi để chuyển thế chiến lược từ phòng ngự sang tổng phản công. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Đảng, và thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ kháng chiến, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã ban hành và triển khai Đề án về nhiệm vụ công tác kinh tế - tài chính năm 1953. Các phương hướng lớn được xác định rõ: “Đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm”, “ra sức vận động nhân dân phát triển sản xuất để cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, bồi dưỡng nhân lực và đề phòng nạn đói”[2].

Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đóng góp lương thực, thực phẩm”, nhân dân các dân tộc Việt Bắc, ngoài việc thực hiện nghĩa vụ nộp thóc công, thuế điền thổ, còn tích cực hưởng ứng các hình thức quyên góp sáng tạo như lập “hũ gạo nuôi quân”, bán “Thóc khao quân”, góp phần chi viện trực tiếp cho tiền tuyến.

Riêng trong năm 1950, huyện Định Hóa đã huy động được 57.000 kg thóc, trong đó “thóc khao quân” đạt gần 7.200 kg[3]. Huyện Sơn Dương quyên góp 92.430 kg thóc quân lương, 171.560 kg thóc thuế điền thổ và bán cho Nhà nước 112.241 kg lương thực[4].

Trong đợt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ trong chưa đầy một tuần, huyện Yên Sơn đã huy động được 300 con trâu cùng 500 phương tiện vận chuyển gồm xe đạp, xe bò, xe cải tiến[5].

Các đoàn dân, quân thồ hàng, trèo non lội suối cung cấp lương thực cho Chiến dịch Điện Biên Phủ (Tranh tư liệu lịch sử)

Đặc biệt, từ tháng 01 đến tháng 3/1951, phụ nữ Ngân Sơn đã đóng góp 2.230 ống gạo tiết kiệm, mỗi ống trung bình 7 lạng, tương đương 1.061 kg gạo mỗi tháng - thành tích được Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương. Ở nhiều địa phương khác, phong trào “hũ gạo tiết kiệm” cũng được lan tỏa mạnh mẽ, tiêu biểu như Chợ Rã 1.302 kg, Chợ Đồn 138 kg và Bạch Thông 304 kg[6].

Trong năm 1950, ngoài việc chi viện lương thực cho Chiến dịch Biên giới, nhân dân tỉnh Bắc Kạn còn đóng góp 207 tấn 490 kg thóc, 4 tấn 304 kg ngô, 1 tấn 304 kg gạo từ phong trào “hũ gạo nuôi quân”, cùng 184 bộ quần áo, 64 áo trấn thủ và 93.408 đồng tiền mặt[7] để phục vụ bộ đội địa phương.

Năm 1951, Bắc Kạn tiếp tục huy động 225 tấn thóc và 8.157.300 đồng chi viện lực lượng vũ trang. Trong các phong trào “Hũ gạo nuôi quân” và “Mùa Đông binh sĩ”, phụ nữ toàn tỉnh đã đóng góp 6.227 kg gạo, may tặng 663 chiếc chăn và áo trấn thủ, tổng trị giá 5 triệu đồng[8].

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân Bắc Kạn đã huy động 4.789 kg thực phẩm, trị giá 6.495.000 đồng, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao[9]. Dù những con số ấy có thể chưa lớn, song trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, thì đây là những đóng góp có ý nghĩa to lớn, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và tấm lòng son sắt của đồng bào các dân tộc đối với kháng chiến và cách mạng.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào thi đua đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến diễn ra rộng khắp. Riêng huyện Chợ Đồn đã huy động và cung cấp cho cuộc kháng chiến 6.300 tấn thóc, 120 tấn thịt các loại cùng hơn 500 tấn rau, củ, quả[10], bảo đảm nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào phục vụ bộ đội và nhân dân vùng chiến khu.

Cùng với đó, phong trào “Đỡ đầu địa phương quân” được đồng bào các dân tộc tích cực hưởng ứng. Nhân dân nhiều nơi đã tự nguyện hiến ruộng đất, trâu bò cho bộ đội tăng gia sản xuất, đồng thời quyên góp hàng trăm nghìn đồng để mua sắm vũ khí, trang thiết bị phục vụ chiến đấu.

Tại huyện Định Hóa, đồng bào đã ủng hộ bộ đội địa phương 52 mẫu ruộng, 2 con trâu và 38.000 đồng. Ở huyện Sơn Dương, chỉ trong ba tháng đầu năm 1952, nhân dân đã quyên góp 81.900 đồng để hỗ trợ bộ đội và thương binh. Mỗi năm, đồng bào các dân tộc trong huyện còn đóng góp khoảng 6.000 kg lương thực nuôi quân[11].

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất và củng cố kinh tế, quân dân các dân tộc Liên khu Việt Bắc trong năm 1953 đã hưởng ứng chủ trương của Đảng, dồn sức người, sức của phục vụ kháng chiến, coi đó vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa là nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc. Kết quả, trong năm 1953, đồng bào Liên khu Việt Bắc đã cung cấp cho mặt trận “hơn 1.000 tấn gạo, 118 tấn thịt, 113 tấn rau khô (đậu, lạc) và muối; riêng mặt hàng rau khô vượt mức chỉ tiêu tới 150%”[12]. Với đóng góp to lớn ấy, hậu phương Việt Bắc không chỉ tự bảo đảm được nhu cầu của nhân dân mà còn trở thành nguồn tiếp tế vật chất chủ lực cho các chiến trường lớn, nhất là chiến trường Tây Bắc và mặt trận Điện Biên Phủ.

(Còn tiếp)

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 94.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 – 1956, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 4.

[3] Huyện ủy Định Hóa: Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá, Huyện uỷ Định Hóa xuất bản, 1985, tr.137.

[4] Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Sơn Dương: Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Dương 1941-1990 sơ thảo, Sơn Dương, 1994, tr.39

[5] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Yên Sơn: Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Sơn (1940-2010), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 44

[6] C.B, Hũ gạo kháng chiến của phụ nữ Ngân Sơn. Báo Bắc Kạn, số đặc biệt, ngày14/12/2000, tr.3

[7] Báo cáo tóm tắt tình hình chung của tỉnh Bắc Kạn trong năm 1950. HS3 - C1 - Lưu trữ Tỉnh uỷ Bắc Kạn, tr.3

[8] Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái: Bắc Thái - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 -1954. Nxb. Bắc Thái. 1990, tr.200.

[9] Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn: Lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Kạn 1947 - 1997. Xí nghiệp in Bắc Thái 1999, tr.107

[10] Chợ Đồn anh hùng, Báo Bắc Kạn, số đặc biệt, ngày 14/12/2000, tr.25.

[11] Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Sơn Dương: Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Dương 1941-1990 sơ thảo, Sơn Dương, 1994, tr.39

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Liên khu ủy Việt Bắc giai đoạn 1946 -1956, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, t.8, tr. 82.