Nếu như Chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1954 đưa đến việc ký kết Hiệp định Geneva, tiến tới giải phóng miền Bắc, thì Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 đã đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của Hoa Kỳ, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Paris, mở đường đến thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Chiến thắng đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ
Đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, “Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng to lớn, góp phần đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
Ý chí xâm lược của Mỹ về cơ bản đã bị đánh bại qua cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và cuộc tiến công chiến lược năm 1972, tuy nhiên, giới chức hiếu chiến Mỹ vẫn cay cú và hy vọng vào không lực, một lực lượng được xem là đem lại sức mạnh vô địch cho quân đội Mỹ, làm khiếp đảm đối phương.
Chính vì thế, trong cuộc đàm phán hòa bình tại Paris, Hoa Kỳ thể hiện lập trường ngoan cố, đưa ra nhiều điều khoản không thể chấp nhận được đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm cho cuộc đàm phán kéo dài, lâm vào bế tắc.
Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” đã bảo vệ Thủ đô Hà Nội, bảo vệ Hải Phòng, thành phố cảng quan trọng nhất của miền Bắc, qua đó đã bảo vệ hậu phương lớn của cả nước, tiếp tục tạo điều kiện để xây dựng, phát triển, điều phối các nguồn lực, đẩy mạnh chi viện miền Nam, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi cuối cùng. Khối lượng hàng hóa tiếp nhận và vận chuyển của miền Bắc có bị sụt giảm, do địch phá hoại hệ thống giao thông và phương tiện vận tải, nhưng không bị ngưng trệ hoàn toàn.
Các sự kiện quân sự, chính trị, ngoại giao đan xen và hỗ trợ nhau, vì thế, trong mạch chiến thắng của cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chuỗi sự kiện tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, tiến công chiến lược năm 1972, “Điện Biên Phủ trên không”, Hiệp định Paris, Đại thắng Mùa Xuân 1975 là không thể tách rời.

Chiếc máy bay B52 đầu tiên bị Tiểu đoàn 59, Trung đoàn Tên lửa 261 bắn rơi trên cánh đồng Chuôm, xã Phù Lỗ, huyện Đông Anh (Hà Nội) vào 20h13 đêm 18/12/1972. (Ảnh Tư liệu Bảo tàng Phòng không - Không quân)
Đánh bại học thuyết “không quân là công cụ chiến thắng”, đánh bại huyền thoại không lực Mỹ
Nhiều tướng lĩnh Mỹ, tiêu biểu là Tướng Mỹ Curtis E. Limay luôn coi không quân là công cụ chiến thắng, không quân giữ vai trò quyết định, giành thắng lợi bằng không quân vừa nhanh chóng, vừa “sạch sẽ”, lại ít hao tổn về nhân mạng quân đội Mỹ. Pôn Strátman, một sĩ quan chủ chốt của nền quân sự Hoa Kỳ tổng kết rằng: Lịch sử chiến tranh là một lịch sử về học thuyết, Hoa Kỳ có một học thuyết về đổ bộ, một học thuyết về ném bom, một học thuyết về trận chiến không- lục. Nhóm nghiên cứu về chiến tranh không quân thuộc Trường đại học Conên (Mỹ) trong cuốn sách Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương cho thấy quan điểm của giới quân sự Mỹ: không quân có “ưu thế về số lượng, khống chế về kỹ thuật, thuận lợi về căn cứ và hậu cần” và “một khi ưu thế trên không đã được xác lập ở một khu vực nào đó thì nanh vuốt của nó khó mà bị bẻ gãy”[1]. Như vậy, sức mạnh quân sự Mỹ bao gồm và đặc biệt quan trọng là sức mạnh không quân.
Đã từng chủ trương ném bom rải thảm Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai và đạt được một số thành công nhất định, Tướng Curtis E. Lemay, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ một lần nữa lại nổi tiếng với tuyên bố đầu năm 1964: “Giải pháp của tôi ư? Hãy bảo người Việt Nam co vòi lại… nếu không, chúng ta sẽ ném bom đưa họ trở lại thời kỳ đồ đá”.
Ngày 26/3/1967, Le May tiếp tục lên tiếng tại Câu lạc bộ thành phố Channel (Long Beach, bang Califonia): “Chúng ta phải quyết tâm tiếp tục ném bom cho đến khi chúng ta phá hủy mọi công trình xây dựng ở miền Bắc…. phá hủy hoàn toàn năng lực sản xuất của chúng”[2].
“Trận mưa bom giáng sinh”, không chỉ là hình ảnh, mà còn là thực tế, cho thấy chẳng sức mạnh nào có thể lay chuyển nổi ý chí sắt đá của dân tộc ta trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những tính toán đơn thuần về mặt lý thuyết, dựa vào sức mạnh của vũ khí và kỹ thuật đã thất bại cay đắng trước sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cùng với thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, sức mạnh huyền thoại của không lực Hoa Kỳ đã bị đập tan.
Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ
Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu từ tháng 4/1972 và kết thúc bằng cuộc tập kích chiến lược đường không cuối năm 1972. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần này, không quân và hải quân Mỹ bị tổn thất năng nề với 735 máy bay hiện đại, trong đó có 61 máy bay B52 và 10 máy bay F 111 bị bắn rơi, 135 tàu chiến bị bắn trúng và bắn cháy[3].
Các mục tiêu chiến lược của địch trong cuộc chiến tranh này không thực hiện được, nhất là mục tiêu ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Trong giai đoạn cuối chiến tranh thế giới thứ hai, khi ném bom Nhật Bản, không quân Mỹ hoàn toàn làm chủ bầu trời và có thể làm những gì mình muốn. Còn trong chiến dịch ném bom miền Bắc Việt Nam cuối năm 1972, không chỉ gặp phải phản ứng dữ dội của dư luận Mỹ và dư luận tiến bộ thế giới, không quân Mỹ đã thực sự “đuối sức”. Tỷ lệ thiệt hại quá cao đến mức không thể chịu đựng được nữa. Đã có những phi hành đoàn B 52 từ chối bay. Trong ba ngày đêm đầu tiên của chiến dịch, ít nhất có 10 máy bay B52 bị bắn rơi.
Điều đó khiến cho Quốc hội và nhân dân Mỹ phản ứng dữ dội, yêu cầu chấm dứt oanh tạc ngay lập tức. Bộ Chỉ huy không quân bị áp lực nhiều phía: “Chấm dứt cuộc tắm máu này!”. Nhiều sĩ quan cao cấp trong Bộ Chỉ huy không quân Mỹ cho rằng Mỹ có thể mất thêm nhiều máy bay và thuyết ưu thế của không quân có thể vô nghĩa.

Xác máy bay B52 rơi ở Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Chiến dịch phòng không đạt tới mức tiệu diệt cao nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc
Đây là chiến dịch đầu tiên trên thế giới tiêu diệt số lượng lớn máy bay chiến lược của một cường quốc trong một thời gian ngắn, giáng cho không quân chiến lược Mỹ những đòn nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của đế quốc Mỹ. Thất bại đó đã đập tan cố gắng cuối cùng của giới hiếu chiến Mỹ hòng sử dụng sức mạnh quân sự hủy diệt để đàm phán trên thế mạnh.
Tất cả các lực lượng phòng không - không quân đều lập chiến công, từ bộ đội tên lửa, pháo cao xạ, không quân đến dân quân tự vệ. Bộ đội tên lửa, lực lượng chủ lực chống lại cuộc tập kích đường không bắn rơi 30 máy bay B52. Bộ đội không quân bắn rơi 2 máy bay B52. Lực lượng dân quân tự vệ bắn rơi 11 máy bay chiến thuật hiện đại khác của Mỹ. Điều đó cho thấy tính hiệu quả của lưới lửa phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc chiến đấu đất đối không đã diễn ra nhiều trong lịch sử, nhưng đây là chiến dịch tiêu biểu cho thấy sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Một điều đặc biệt, đây là cuộc đối đầu không cân sức giữa một bên là không lực Mỹ là mạnh nhất thế giới và một bên không phải là hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới, nhưng đây là lưới lửa phòng không hiệu quả nhất trên thế giới và chiến thắng đã thuộc về quân đội và nhân dân Việt Nam[4].
Riêng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, quân dân Thủ đô, quân dân miền Bắc đã làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy, bắn rơi 81 máy bay hiện đại của Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52[5].
Sớm chấm dứt cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam
Chiến dịch ném bom lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã cô lập Mỹ hơn nữa trên trường quốc tế, đẩy mạnh cuộc phản chiến của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Khi cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 nổ ra, người biểu tình phản chiến lại đổ ra đường phố trên toàn thế giới. Thủ tướng Thụy Điển so sánh Hoa Kỳ với Đức quốc xã và ông dẫn đầu đoàn biểu tình phản đối Mỹ trên đường phố.
Đức Giáo hoàng gọi cuộc ném bom giết hại hàng nghìn thường dân là “nỗi thống khổ mỗi ngày”. James Reston của New York Times gọi các trận ném bom là “cuồng chiến”. Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa William Saxbe của bang Ohio nói rằng tổng thống Nixon đã mất hết tri giác[6].
Với những chứng cứ không thể chối cãi khi ném bom vào các mục tiêu đông dân cư, Nixon bị New York Times gọi là “tên bạo chúa đã hóa điên”. Báo Bưu điện Oasinhtơn (The Washington Post) viết “hàng triệu người Mỹ cực kỳ xấu hổ và nghi ngờ về thần kinh không lành mạnh của Tổng thống”.
Chủ tịch Xô viết tối cao Liên xô Leonid Brezhnev lên án quyết định của Nixon san bằng Hà Nội là vô cùng dã man; 52 tổ chức chính trị, xã hội và nghiệp đoàn ở Pháp tổ chức biểu tình, tuần hành đòi Mỹ chấm dứt ném bom tàn sát ở Việt Nam, đòi Mỹ ký ngay hiệp định đã thỏa thuận tháng 10/1972.
Ngay tại Mỹ, ngày 02/01/1973, khối nghị sĩ dân chủ tại Hạ viện đã biểu quyết chủ trương cắt toàn bộ chi phí quân sự ở Đông Dương và ngày 04/01/1973, khối nghị sĩ dân chủ tại Thượng viện cũng thông qua chủ trương trên.
Hoa Kỳ muốn kéo dài chiến tranh ở Việt Nam, nhưng thất bại trong chiến dịch Linebaker II đã làm cho cuộc chiến đó sớm chấm dứt.
[1] . Đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973, tr. 44.
[2] TS Phan Văn Hoàng: Tướng Cutis E. LeMay “con ác quỷ”. http://www.giaodiemonline.com/2008/05/acqui.htm.
[3] . Dẫn theo Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945- 1975) – Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 565 – 567. Sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, 1954- 1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 580 đưa ra số liệu: 728 máy bay, trong đó có 59 máy bay B52 bị bắn rơi, 137 tàu chiến bị bắn trúng và bắn cháy.
[4] . Jhon Frissbee viết trên Tạp chí Không quân Mỹ rằng: trên không phận Hà Nội và Hải Phòng, trung bình cứ 49 phi xuất có một máy bay bị bắn hạ. Tỷ lệ này trong chiến tranh thế giới thứ hai tại hai chiến trường ác liệt nhất là Đức và Nhật Bản là trung bình cứ 64 phi xuất mới có 1 máy bay bị bắn hạ.
[5] . Hoa Kỳ đưa ra số liệu thiệt hại của chiến dịch ném bom 12 ngày đêm cuối năm 1972 là 27 máy bay, gồm 15 B-52 và 12 máy bay chiến thuật: Không quân Mỹ mất 15 B-52, hai F-4, hai F-111, một EB-66 và một trực thăng cứu nạn HH-53. Hải quân Mỹ mất hai A-7, hai A-6, một RA-5, và một F-4. Tuy nhiên, Giôdep A.Am tơ cho rằng: “Khoảng 33 đến 35 B 52, chở gần 100 phi công Mỹ đã bị bắn rơi trong 12 ngày. Con số chính thức được thừa nhận… chỉ 15 may bay bị mất hầu như chắc chắn là sai. Tài bắn chính xác mới phát hiện ra của các tay súng Bắc Việt Nam đã làm cho Lầu năm góc ngạc nhiên đến mức cuối tháng 12, Bộ tham mưu liên quân đòi chấm dứt ném bom”. Sách Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. QĐND, H. 1985, tr. 424.
Gần đây, bộ phim tài liệu The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick, tập 9 đưa ra số liệu 15 máy bay B 52 bị bắn rơi, 93 phi công Mỹ mất tích, 45 phi công Mỹ bị bắt làm tù binh.
Mỹ không tính những chiếc B52 bị bắn trúng, bắn cháy, bắn hỏng nhưng vẫn cố bay về được căn cứ. Trong chiến dịch Linebacker II, ít nhất có 6 chiếc B52 bị bắn hỏng nặng, nhưng vẫn bay về được căn cứ tại Thái Lan, Philippine.
[6] . The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick, tập 9.
