Trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” có ý nghĩa và giá trị lý luận đặc biệt to lớn đồi với tiến trình cách mạng Việt Nam từ đó về sau
Tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” là cuốn sách do Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I xuất bản năm 1949 với tên tác giả là Lê Quyết Thắng, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm là tập hợp 4 bài báo của Người đăng trên báo Cứu quốc ngày 30, 31 tháng 5 và ngày 1, 2/6/1949.
Trong di sản tư tưởng lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một tác phẩm quan trọng, có giá trị lý luận xuyên suốt chiều dài của lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi nó ra đời cho đến nay và còn có ý nghĩa trong những chặng đường cách mạng tiếp theo. Có thể tìm hiểu giá trị lý luận của tác phẩm trên một số khía cạnh sau:
Tác phẩm đặc biệt quan trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều tác phẩm nhằm mục đích này, nhưng tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” có ý nghĩa nhất, là tác phẩm chủ yếu nhất để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngay từ trong quá trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, trong tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến tư cách của người cách mệnh, trong đó nói đến đạo đức người cách mệnh. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khi chưa thành lập Đảng cũng như trong giai đoạn sau này 1930-1945, Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, những phẩm chất được Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh nhiều hơn là lòng yêu nước, thương nòi, tinh thgần tiên phong, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất, không quản hy sinh, gian khổ đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng, rèn luyện được đội ngũ cán bộ với những phẩm chất cách mạng nổi bật.
Sau này. trong báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng tháng 02/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mạng mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”[1].
Trải qua giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, từ tháng 9 năm 1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Chúng ta có chính quyền cách mạng. Ngoài nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta còn lãnh đạo nhiệm vụ kiến quốc. Trong quá trình đó, đã nảy sinh những thói hư, tật xấu của cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt của Đảng và các ban, ngành, đoàn thể nói riêng. Trong lúc đó, yêu cầu người cán bộ phải rèn luyện những phẩm chất đạo đức cách mạng để bảo đảm mình không biến chất, sa ngã, phản bội lợi ích của nhân dân.
Chúng ta thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều tác phẩm giáo dục đạo đức phẩm chất cách mạng trong giai đoạn này như Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh huyện và làng, năm 1945, Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, năm 1947, Sửa đổi lối làm việc, năm 1947, Dân vận, năm 1950... Nhưng đây là tác phẩm chủ yếu nhất, có ý nghĩa nhất, trực tiếp nhất giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phong cách sống giản dị, tự lập của Bác Hồ trên chiến khu Việt Bắc (Ảnh tư liệu)
Tác phẩm trình bày rõ nhất, cụ thể nhất những đức tính cần có của người cán bộ đảng viên trong bối cảnh lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc đến các đức tính cần, kiệm, liêm, chính
Trong bức thư gửi Giám đốc sở Công an khu 12/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tư cách người công an cách mệnh, trong đó nêu rõ ngay câu đầu tiên, yêu cầu đầu tiên đối với người công an cách mạng là “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính”[2].
Và đến tháng 6/1949 cuốn sách “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” được xuất bản trên cơ sở những bài báo của Người đăng trên báo Cứu quốc cuối tháng 5 và đầu tháng 6 năm 1949.
Cũng trong năm 1949, khi đến thăm trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương đóng tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có ghi vào sổ vàng của Trường câu nổi tiếng, sau này trở thành slogan của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
“Học để làm việc,
làm người,
làm cán bộ.
Học để phụng sự Đoàn thể,
“ “ giai cấp và nhân dân,
“ “ Tổ quốc và nhân loại.
Muốn đạt mục đích, thì phải
cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư”[3].
Năm 1969, trước khi vĩnh biệt Đảng ta, nhân dân ta về với thế giới người hiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta bản Di chúc lịch sử. Trong Di chúc khi nói đến công tác xây dựng Đảng, một lần nữa, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[4].
Bác Hồ với bà con nông dân xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngày 20/91954 (Ảnh tư liệu)
Như vậy có thể nói rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc đến đức tính cần, kiệm, liêm, chính mà người cán bộ cần có. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng, tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” là tác phẩm đầy đủ nhất về nội hàm của những đức tính, của những phẩm chất này, được người giải thích cặn kẽ, lấy ví dụ cụ thể cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo.
Chẳng hạn, Người giải thích: Cần là “siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai””. Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, “Liêm là trong sạch, không tham lam”, “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn”. Ngoài ra người còn lấy rất nhiều ví dụ cụ thể trong các lĩnh vực của công cuộc kháng chiến, kiến quốc đang diễn ra để làm ví dụ minh họa. Người cũng giải thích mối quan hệ chặt chẽ giữa 4 đức tính cần, kiệm, liêm, chính.
Chúng ta biết rằng, sau khi nước nhà độc lập không lâu, lại ngay lập tức phải bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trình độ học vấn của nhân dân nói chung, của cán bộ nói riêng còn rất thấp. Nếu không có một sự giải thích rõ ràng, cặn kẽ, cụ thể, thì việc hiểu hết nội hàm của những đức tính, những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính không phải là một việc dễ dàng. Việc chủ tịch Hồ Chí Minh phải giải thích rõ ràng thế nào là cần, thế nào là kiệm, thế nào là liêm, thế nào là chính để cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hiểu rõ và làm theo. Chính vì vậy, Người viết: “Tuy vậy, đồng bào ta có người đã hiểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có người thực hành nhiều, có người thực hành ít. Cho nên cần phải giải thích rõ ràng để cho mọi người hiểu rõ, mọi người đều thực hành”[5].