Quá trình đô thị hóa và sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp, khu chế xuất, một mặt giảm bớt đáng kể diện tích đất đai sản xuất, mặt khác tạo ra một lượng lớn việc làm phi nông nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao động ngày càng tăng và có tính rộng khắp trên các vùng, địa phương trong cảnước. Điều này đã tạo ra xu hướng người lao động di cư tìm kiếm việc làm,từ các tỉnh thuộc vùng nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp. Nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động nữ di cư làm việc ở các khu công nghiệp là yêu cầu cấp thiết và thiết thực để xây dựng chính sách; xây dựng cơ chế trao quyền và nâng cao năng lực của phụ nữ, bảo đảm sinh kế bền vững.

       

        Sự phát triển ồ ạt của các khu công nghiệp (KCN) cần một lượng lớn người lao động và trong quá trình đô thị hóa, một bộ phận lớn nông dân mất đất canh tác trở nên không có công ăn việc làm, cần di cư kiếm sống; đó là hai yếu tố hàng đầu thúc đẩy người lao động di cư hiện nay.

          Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cả nước đã có 418 KCN thành lập với tổng diện tích 219,1 nghìn ha, trong đó có 298 KCN đi vào hoạt động với tổng diện tích khoảng 155,3 nghìn ha. Đến nay, các KCN đã phát triển và có mặt tại 61 địa phương trên Tổ quốc, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 4 triệu lao động. Trong đó, lao động nữ di cư chiếm hơn 70%, tập trung ở các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề như dệt may, da giày, điện tử… Lực lượng lao động này đã và đang có vai trò quan trọng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.

          Mặc dù có vai trò quan trọng trong lực lượng lao động của cả nước cũng như phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nhưng lao động nữ di cư vẫn là nhóm dễ bị tổn thương nhất và khó tiếp cận được với các chính sách về an sinh xã hội. Cần phải hiểu hơn nhu cầu thiết thực của phụ nữ di cư để xây dựng chính sách; xây dựng cơ chế trao quyền và nâng cao năng lực của phụ nữ, đảm bảo sinh kế bền vững, phục hồi sinh kế thông qua mô hình tiết kiệm vi mô, nhóm tương trợ cộng đồng… Vì vậy, để nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động nữ ở các khu công nghiệp, cần tập trung một số giải pháp:

          Một là, đẩy mạnh đào tạo trình độ về đào tạo, bồi dưỡng lao động nữ những kiến thức, kỹ năng mới. Để làm được điều này trước tiên pháp luật về việc làm của lao động nữ cần có những quy định cụ thể về việc hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo kiến thức về chuyển đổi số cũng như các kiến thức và kỹ năng xuất phát từ nhu cầu của chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng cần có những quy định về đào tạo nghề cho lao động nữ khi bị các doanh nghiệp sa thải do không đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn nghề nghiệp để họ có cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp.

Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Khung trình độ quốc gia và đã có Kế hoạch triển khai Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên, để cho lao động nói chung, lao động nữ nói riêng đạt các tiêu chuẩn trình độ giáo dục, đào tạo cấp khu vực, Việt Nam cần đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện các quy định về đào tạo nghề nhằm hướng tới hài hoà hoá trình độ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, từ đó giúp lao động nữ có nhiều cơ hội tiếp cận và làm việc tại các nước thành viên ASEAN.

          Hai là, nhằm bảo đảm bình đẳng giới về việc làm của lao động nữ, hạn chế sự phân biệt đối xử của doanh nghiệp trong tuyển dụng, sử dụng lao động nữ Chính phủ cần ban hành quy định cụ thể về việc nghiêm cấm các doanh nghiệp có hành vi phân biệt đối xử với lao động nữ trong các chương trình tuyển dụng của doanh nghiệp. Hiện nay, các quy định hợp đồng lao động giữa lao động nữ và chủ sử dụng lao động tuân thủ quy định về hợp đồng lao động chung dành cho mọi đối tượng cho nên cần cân nhắc nghiên cứu tách riêng hợp đồng lao động có một bên tham gia là lao động nữ. Quy định tách riêng như vậy sẽ góp phần khống chế việc doanh nghiệp sa thải lao động nữ một cách tùy tiện.

           Ba là, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về việc làm của lao động nữ, các cơ quan lập pháp, lập quy cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành chưa theo kịp so với yêu cầu của chuyển đổi số. Cụ thể, rà soát các ngành nghề cần đào tạo dự phòng, bổ sung một số ngành nghề mới phát sinh do sự phát triển của khoa học – công nghệ để lao động nữ bảo đảm cơ hội việc làm bền vững, không bị gián đoạn, không bị ảnh hưởng đến thu nhập. Ngoài ra, cũng cần chú trọng các ngành nghề đào tạo trong ngắn hạn phù hợp với lao động nữ, gắn kết hoạt động hướng nghiệp và tư vấn việc làm.

           Bốn là, nâng cao hơn nữa vai trò năng lực, trình độ, kỹ năng của chủ thể quyền của phụ nữ trong quá trình thực hiện quyền được giáo dục, quyền tiếp cận thông tin về việc làm, quyền có việc làm và các quyền con người nói chung thông qua việc lồng ghép các nội dung giáo dục về quyền của phụ nữ nói riêng và quyền con người nói chung vào hệ thống giáo dục quốc dân và giáo dục, đào tạo nghề (bao gồm sư phạm, nghề luật, chính sách công và quản lý công,…).

          Năm là, nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giám sát thực thi luật và chính sách; áp dụng mạnh mẽ và rộng rãi các biện pháp chế tài trong việc xử lý hành vi lạm dụng, vi phạm các quy định pháp luật trong việc đào tạo, tuyển dụng, sử dụng lao động nữ cũng như bảo đảm các quyền có việc làm của phụ nữ hiện nay.

           Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc thực hiện các quy định pháp luật quốc tế và quốc gia về bảo đảm quyền có việc làm của phụ nữ, cũng như kinh nghiệm quản trị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số…

          Đặc biệt, hỗ trợ an sinh xã hội là khâu then chốt làm cho quá trình di cư thực sự hữu ích cho phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương khác. Việc hỗ trợ các loại hình nhà ở như ký túc xá giá rẻ, an toàn và đảm bảo vệ sinh cho lao động nữ di cư, đặc biệt là tại những khu công nghiệp là vô cùng cần thiết. Cần đưa nội dung nhà cho thuê vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các đô thị; cung cấp các chương trình hỗ trợ, cơ chế tài chính để khuyến khích chủ nhà và người đi thuê bảo trì, nâng cấp chất lượng nhà ở hiện có. Hỗ trợ về nhà ở nói riêng và hỗ trợ về an sinh xã hội nói chung cần xóa bỏ rào cản tiếp cận giữa chính cư – ngụ cư, giữa khối chính thức – phi chính thức là giải pháp cốt lõi nhất để bảo đảm cho lao động di cư làm việc trong khu vực phi chính thức được bảo vệ và hỗ trợ phát triển.

          Lao động nữ di cư đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế công nghiệp của Việt Nam, nhưng họ đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Để cải thiện đời sống và quyền lợi của họ, cần có các chính sách bảo vệ tốt hơn về lao động, tăng cường phúc lợi xã hội, cải thiện điều kiện sống, và quan trọng nhất là nâng cao nhận thức về quyền lợi của nữ giới trong môi trường lao động. Chính phủ, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp cần cùng hợp tác để xây dựng một môi trường làm việc công bằng, an toàn và đảm bảo quyền lợi cho tất cả lao động nữ di cư.

          Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng hoàn thiện chính sách pháp luật quan tâm, chăm lo người lao động nhằm từng bước nâng cao trình độ, tay nghề, đảm bảo cuộc sống cho lao động nữ di cư. Trong quá trình đầu tư và sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp đã chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật lao động và bổ sung thêm chế độ phúc lợi xã hội đặc thù cho lao động.Tuy nhiên, việc tập trung số lượng lớn lao động nữ di cư tại các địa phương cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề thách thức liên quan đến môi trường làm việc, điều kiện sinh sống, hạ tầng cơ sở (đường giao thông, dịch vụ y tế, giáo dục, giải trí…) nhằm đáp ứng tốt hơn cuộc sống vật chất, tinh thần của người lao động và gia đình.

          Trong những năm tới, dự báo thu hút FDI của Việt Nam tiếp tục cải thiện tích cực theo định hướng thu hút dự án đầu tư chất lượng cao, công nghệ lõi gắn với sự chuyển dịch chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển khu công nghiệp sinh thái trở thành xu hướng tất yếu, gắn liền với chuyển dịch mô hình kinh tế xanh, bền vững. Điều này tác động trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực tại các nhà máy, doanh nghiệp. Nâng chất cho công nhân lao động, trong đó có nữ lao động di cư trở thành vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết. Các hàm ý chính sách liên quan đến vấn đề này cần hướng đến thực chất, gắn với nhu cầu thị trường, của doanh nghiệp và đặc thù của lao động nữ (tính giới, tính dễ tổn thương…).

        Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật chăm lo quan tâm tốt hơn đến quyền và lợi ích chính đáng của lao động nữ; rà soát, thay thế những chính sách, cơ chế không phù hợp hoặc không đảm bảo điều kiện thực thi để lao động nữ di cư được thụ hưởng chính sách phù hợp. Các cơ quan quản lý phối hợp với các địa phương, doanh nghiệp tổ chức thường xuyên, liên tục các chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề, kỹ năng làm việc dành cho lao động nữ phù hợp với môi trường, điều kiện làm việc tại các khu công nghiệp, gỡ nút thắt về chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách, thúc đẩy mạnh mẽ chương trình nhà ở xã hội, nhất là tại các địa phương có đông khu công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tiếp cận thuê mua, sở hữu nhà ở, đảm bảo cuộc sống và gắn bó lâu dài với công việc, với doanh nghiệp.

        Bên cạnh đó, khuyến khích các doanh nghiệp tiếp tục quan tâm, có nhiều chế độ, phúc lợi xã hội vượt trội ngoài lương, thưởng để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho lao động nữ, qua đó giúp chị em yên tâm lao động, cống hiến, đổi mới sáng tạo, đóng góp tích cự hơn vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Phạm Thị Thúy Nga, Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền của lao động di cư nội địa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2021.

2. Quốc hội, Bộ luật Lao động số: 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019.

3. Đặng Nguyên Anh, Nhìn lại 10 năm nghiên cứu di cư ở Việt Nam: Hiện trạng và tác động, Tạp chí Xã hội học, số 03, 2022.

4. Báo cáo Quốc gia Việt Nam: Thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Thanh niên, Số 6, 2023.

5. TS. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), Định hướng giá trị việc làm và tính năng động trong công việc của lao động nữ, Tạp chí tâm lý học số 12 (177) tr.42-53.

6. Phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam và vai trò của thu hút FDI (tapchicongthuong.vn)