Sau khi thất bại ở Điện Biên Phủ, nước Pháp đã phải chấp nhận ký Hiệp định Geneva, công nhận độc lập của Việt Nam. Hiệp định Geneva lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Theo đó, giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia và chỉ tồn tại cho đến khi hoàn thành Tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp. Các lực lượng quân sự nước ngoài phải rời khỏi Việt Nam. Theo các nội dung của Hiệp định Geneva, hai năm sau khi hiệp định được ký kết, hai miền Nam-Bắc Việt Nam sẽ tổ chức hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Nhưng sau đó, Hoa Kỳ đã can thiệp vào tình hình Việt Nam với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần gửi yêu cầu đàm phán để thống nhất đất nước nhưng đều bị chính quyền Sài Gòn dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ khước từ.

Thực ra, từ những năm 1950, Hoa Kỳ đã can thiệp sâu vào tình hình Việt Nam khi là nước viện trợ chủ yếu cho quân đội Pháp ở Đông Dương. Vào cuối năm 1950, “Mỹ viện trợ cho Pháp ở Đông Dương 133 triệu USD và chuyển giao khối lượng lớn vũ khí, tàu chiến, máy bay chiến đấu, xe quân sự. Năm 1954, viện trợ của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương lên tới 1 tỷ USD (chiếm 78% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương)[1]”.

Về nguyên nhân vì sao Hoa Kỳ can thiệp vào tình hình Việt Nam sau Hiệp định Geneva thì đến nay đã có nhiều giải thích khá đầy đủ. Thế nhưng, có lẽ ý kiến của sử gia nổi tiếng người Mỹ Cecil B. Currey là một ý kiến xác đáng. Trong cuốn sách “Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp)”, tác giả Cecil B. Currey cho biết năm 1956, Allen Dulles, người đứng đầu của Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử ở Việt Nam diễn ra theo quy định của Hiệp định Genève thì “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi". Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không[2]”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Liên Xô, tháng 7/1955 (Ảnh tư liệu)

Edward Miller, Tiến sĩ Lịch sử Harvard, giáo sư Lịch sử Đại học Dartmouth, bang New Hampshire trong cuốn sách “Liên minh sai lầm Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam” cho rằng có ba nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng nhất là phía Mỹ sợ nếu hai miền Việt Nam tổng tuyển cử, thống nhất đất nước thì chủ nghĩa cộng sản sẽ tiếp tục lan rộng và ảnh hưởng của Liên Xô sẽ càng lớn, đó là điều phía Mỹ không mong muốn. Theo Edward Miller: “…Việc Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại về sự bành trướng Xô viết. Việc ủng hộ Diệm đơn thuần chỉ là bước tiếp theo trong chiến lược ngăn chặn cộng sản mà Washington đã theo đuổi tại Đông Dương từ năm 1950, khi bắt đầu cung cấp tiền, vũ khí và cố vấn cho nỗ lực chiến tranh chống lại Việt Minh của Pháp[3]”.

3. Một vài nhận xét thay lời kết luận

Trước hết, cần khẳng định rằng, với đại bộ phận Nhân dân Việt Nam, không có cái gọi là “cuộc chiến tranh Việt Nam” mà chỉ có cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Chiến tranh có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ giá trị và nhân phẩm của con người v.v…Vì vậy, 2 “cuộc chiến tranh” mà những luận điệu xuyên tạc nêu trên chính là các cuộc chiến tranh – kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Hiện nay, để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch đã xuyên tạc lịch sử, trong đó có việc cho rằng vì Đảng Cộng sản hiếu chiến, chủ trương gây ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam năm 1945-1975 (!?). Thậm chí, có những luận điệu “quái gở” kiểu như: Việt Nam không chống Pháp cũng được trao trả độc lập như các nước châu Phi trong thập niên 1960; Việt Nam đã được Pháp trao trả độc lập cho vua Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim từ trước tháng Tám năm 1945; Việt Nam không cần phải chống Pháp và chống Mỹ sau đó, vì như vậy là chúng ta “đuổi đi hai nền văn minh”...

Chúng ta đều biết rằng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược không phải đầu tiên do Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động và khởi xướng. Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 mới ra đời, tháng 1/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới về nước lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Trong khi đó, trước đó, đã có rất nhiều các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp mọi miền đất nước chống lại người Pháp xâm lược. Thậm chí, trong những phong trào kháng Pháp tiêu biểu ấy chúng ta thấy sự góp mặt của cả các vị hoàng đế triều Nguyễn như: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Thậm chí, phong trào chống Pháp của những nhà cách mạng thuộc Việt Nam Quốc dân đảng của lãnh tụ Nguyễn Thái Học còn thiên về bạo lực khốc liệt hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp, tháng 01/1958 (Ảnh tư liệu)

Điểm lại, tất cả những hoạt động, những quyết sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khi Người về nước lãnh đạo cách mạng cho đến khi Người qua đời, chúng ta nhận thấy mục tiêu theo đuổi hòa bình là mục tiêu hoàn toàn nhất quán và bền bỉ của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Có câu châm ngôn rằng: “Nếu bạn muốn hòa bình hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình nhưng cũng luôn luôn chuẩn bị tinh thần và tâm thế để sẵn sàng đánh bại bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Đó là lý do Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc khi hòa bình đã không còn chút cơ hội nào mà tất cả đều từ phía Pháp.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 19/12/1966, cũng như Lời kêu gọi Không có gì quý hơn độc lập, tự do trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 17/7/1966 chỉ được đưa ra khi mọi thiện chí hòa bình của Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã bị khước từ, nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác, phải đứng lên kháng chiến trong bối cảnh Cộng hòa Pháp và sau đó là Hoa Kỳ đã xâm phạm quyền lợi tối cao của dân tộc Việt Nam là độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Chủ trương và tư tưởng hòa bình nhất quán, thật sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được dư luận thế giới đánh giá cao. Do đó, năm 1987, Đại hội đồng UNESCO khóa 24 họp tại Thủ đô Paris, Cộng hòa Pháp đã nhất trí thông qua Nghị quyết vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc; danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thứ 21 trên toàn cầu được vinh danh trước năm 1987.

Đến đây, chúng ta có thể hiểu rõ ai là người đã gây ra cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài 30 năm trên đất nước Việt Nam. Đối với dân tộc Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hòa bình, độc lập, thống nhất là khát vọng, nhưng nó cuối cùng phải thực hiện và đạt được bằng sự hy sinh xương máu của hàng triệu cán bộ, đảng viên và nhân dân qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Giá của hòa bình không bao giờ là rẻ.


[1] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 321

[2] Cecil B. Currey: Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp), Nxb. Thế giới, 2013, tr. 333

[3] Edward Miller: Liên minh sai lầm Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2016, tr. 17-18