Cách đây 80 năm (7/12/1945 – 7/12/2025), Bác Hồ viết thư “Gửi nông gia Việt Nam” khẳng định giá trị của mỗi một tấc đất đối với nông dân và vị thế, vai trò của người nông dân đối với đất nước. Những lời chỉ dạy của Bác về tầm quan trọng của đất; đất đối với người nông dân và đất đối với một đất nước nông nghiệp như nước ta vẫn vẹn nguyên giá trị, nhất là việc chống lãng phí đất đai trong bối cảnh hiện nay

Mở đầu bức thư, Người chỉ rõ: “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên (nghĩa là trước cần phải ăn); nước ta thì “dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giầu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”[1].

Trong 2 năm 1945 - 1946, khi ra Lời hiệu triệu, khi có ý kiến với các Ủy ban (kiến thiết, kháng chiến, tản cư), khi động viên dân chúng,… nhiều lần, Người nhấn mạnh “không để một tấc đất hoang”.

Sau năm 1954, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, với cương vị Chủ tịch nước, vẫn phong cách ấy, Người thường xuyên viết báo nêu kinh nghiệm, có khi chỉ là những việc rất nhỏ của nhà nông.

Tháng 8/1961, Người có bài báo “Cần học những kinh nghiệm tốt” nêu bài học của xã Xuân Lai (Thanh Hóa) khi “lợn thiếu cám” thì “cả xã phát động phong trào trồng cây làm thức ăn cho lợn. Họ không để một tấc đất hoang. Họ biến bờ rào gai thành hàng chục cây số “bờ rào ba”, tức là trồng ba thứ: ngoài trồng cỏ voi, giữa trồng sắn, trong trồng củ dong. Họ thi đua trồng ngô, lang, đu đủ… Bình quân mỗi người có một sào cây thức ăn cho lợn”[2]. Người dùng thành ngữ “tấc đất cắm dùi” một cách tự nhiên và chính xác như người nông dân; khẳng định, ghi nhận, động viên các chiến sĩ trên mặt trận “giữ đất”.

Bác Hồ với nông dân xã Ái Quốc (Hải Dương) năm 1958 (Ảnh tư liệu)

Tháng 12/1945, Người gửi thư tới các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ hy sinh thân mình chặn bước tiến kẻ thù với tiếng nói, cách dùng ngôn từ, hình ảnh của người nông dân: “Từ ba tháng nay, các anh chị em đã đem xương máu ra để giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc”[3].

Tháng 02/1946, Người ra Lời kêu gọi toàn dân đồng lòng, tin tưởng cùng Chính phủ tranh đấu giữ tự do: “Còn một tấc đất, còn một người dân thì còn tranh đấu”[4]. Người căn dặn đồng bào: “Đồng bào nông dân ta cần hiểu rằng ruộng đất rất tốt, nhưng phải có sự chăm chỉ, cần cù thì mới đem lại hoa màu, thóc lúa, nghĩa là “muốn có ăn thì phải lăn vào ruộng”[5].

Triển khai chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ tháng 11/1945, khi nước ta vừa giành được độc lập, Bộ Nội vụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Thông tri giảm tô 25% so với mức địa tô trước cách mạng tháng Tám.

Ngày 16/7/1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh giảm tô thay Thông tri giảm tô năm 1945, đồng thời ban hành Sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian phản quốc cho dân cày nghèo.

Tháng 5/1950, Chính phủ ban hành tiếp Sắc lệnh về thể lệ lĩnh canh và Sắc lệnh về giảm tức cũng như Sắc lệnh về việc sử dụng ruộng đất bỏ hoang.

Tính đến cuối năm 1951, chính quyền nhân dân đã tạm cấp được 253.863 héc ta ruộng đất tịch thu được của thực dân Pháp và Việt gian cho gần 50 vạn nông dân[6].

Ngày 12/4/1953, Chính phủ ban hành ba sắc lệnh về chính sách ruộng đất, trừng trị những địa chủ không tuân theo pháp luật ở những nơi phát động quần chúng và thành lập Toà án nhân dân đặc biệt.

Tháng 11/1953, Hội nghị Trung ương lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (khoá II) đã thảo luận và thông qua Cương lĩnh ruộng đất chính thức của Đảng và quyết định tiến hành phát động quần chúng nông dân thực hiện cải cách ruộng đất trong năm 1954 với nội dung là dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.

Ngày 01/12/1953, kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhất trí tán thành chủ trương cải cách ruộng đất và thông qua Luật Cải cách ruộng đất, và Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ban hành Luật Cải cách ruộng đất.

Chính sách cải cách ruộng đất cùng với đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng đã cho phép huy động đến mức cao nhất sức người, sức của của nhân dân cho tiền tuyến, sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả nước vào chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử: 261.500 dân công với trên 18 triệu ngày công, 25.056 tấn gạo, 907 tấn thịt, 917 tấn lương thực khác, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 thuyền mảng và 500 ngựa thồ đã được huy động phục vụ chiến trường[7]

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (1959) đã xác định nông dân vẫn là quân chủ lực cách mạng, luôn tin theo Đảng” và đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Đất đai và những mùa vàng bội thu

Quán triệt tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, ngay sau khi ra đời, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tuyên bố trong Chương trình 10 điểm của mình là thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.

Tháng 10/1961, để chỉ đạo các địa phương chấp hành đúng đắn chính sách ruộng đất của Đảng và chương trình hành động của Mặt trận, Hội nghị lần thứ I Trung ương Cục miền Nam đã đề ra những nội dung, hình thức và biện pháp cụ thể đối với từng loại ruộng.

Đối với ruộng đất địa chủ, Hội nghị Trung ương Cục tháng 10/1961 nêu rõ: Ruộng đất của thực dân và địa chủ Việt Nam đã cấp cho nông dân hồi kháng chiến chống Pháp, nay kiên quyết đòi lại, khôi phục quyền sở hữu của nông dân trên số ruộng đất đó, tịch thu ruộng đất của địa chủ gian ác hiện hành bị nhân dân lên án để chia cho nông dân, có để lại một phần cho vợ con chúng.

Đối với ruộng đất vắng chủ, tạm giao cho nông dân cày cấy và hưởng hoa lợi. Hội nghị Trung ương Cục lần thứ IV (1966) giải thích rõ thêm: Ruộng đất của địa chủ vắng mặt đều giao cho nông dân quản lý và sản xuất. Sau này khi cách mạng thành công, sẽ căn cứ vào thái độ chính trị cụ thể của từng người mà đối xử...

Thực hiện chính sách ruộng đất trên, tại các vùng giải phóng, đi đôi với việc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng đã thực hiện khẩu hiệu “giải phóng đến đâu, chia ruộng đến đó”. Tính đến cuối 1965, chính quyền cách mạng đã chia 10 vạn héc ta (tức 70% diện tích canh tác) cho nông dân không có ruộng. Tính trung bình ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nông dân đã làm chủ được từ 60 - 70% ruộng đất.

Trong gần 40 năm đổi mới, tiếp tục thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “tấc đất, tấc vàng”, Đảng lãnh đạo đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, nhất là không để lãng phí tài nguyên đất; khuyến khích tập trung và tích tụ đất nông nghiệp. Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp, giải phóng sức lao động, có chính sách bảo hộ, quy hoạch quỹ đất nông nghiệp ổn định, lâu dài giúp người nông dân yên tâm đầu tư vốn, khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, diện tích đất nông nghiệp bỏ hoang còn nhiều, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chưa thực sự hiệu quả. Trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nhiều địa phương vẫn phải bỏ hoang nhiều diện tích đất đai do sản xuất không hiệu quả. Vấn đề chuyển đổi giống cây trồng và vật nuôi trên những diện tích đất nông nghiệp bỏ hoang đã được đề cập từ lâu, nhưng vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để.

Để người nông dân gắn bó với ruộng, cần tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất và chế biến nông sản. Đồng thời, quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ để thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới và hỗ trợ các mô hình phát triển sản xuất hàng hóa, nhằm nâng cao hiệu quả cánh đồng,...

Ngành nông nghiệp cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện chủ trương, định hướng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về quản lý sử dụng đất. Rà soát lại diện tích đất sản xuất nông nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất, tích tụ đất đai tạo điều kiện sản xuất tập trung, quy mô lớn.

Tiếp tục đầu tư nâng cấp đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất đối với những vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn. Đồng thời, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.

 

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr 134.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr 175.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr 154.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr 214.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr 111.

[6] Viện Sử học: 60 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số thành tựu chủ yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr 176.

[7] Tổng cục Hậu cần: Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội, tr 554.