Hương ước là văn bản ghi chép những quy định trong nội bộ làng xã (thiết chế tự quản của cộng đồng) được hình thành trong lịch sử và điều chỉnh, bổ sung mỗi khi cần thiết. Trong buổi đầu hình thành, hương ước tồn tại dưới dạng luật tục, lệ tục của làng xã. Nhưng cùng với sự phát triển và quá trình củng cố quyền lực của nhà nước phong kiến Việt Nam, các luật tục, lệ tục của các làng xã dần được chuẩn hóa dưới dạng hương ước – là sự kết hợp giữa luật tục làng xã với luật pháp của chính quyền phong kiến.

Một ngôi làng ở miền Bắc cuối thế kỷ 19. Ảnh: doisongphapluat.com.vn

“Làng Việt Nam xuất hiện cùng với quá trình tan rã của thị tộc, hình thành công xã nông thôn. Công xã nông thôn hình thành và tồn tại phổ biến trong buổi đầu hình thành nhà nước đầu tiên. Vì thế trong thời kỳ công xã nông thôn phát triển điển hình, tuy đã có sự quản lý nhất định của nhà nước nhưng về cơ bản làng Việt Nam vẫn là đơn vị tự trị tự quản. Đứng đầu là Bồ Chính (già làng). Bên cạnh Bồ Chính là một hội đồng công xã gồm các người trong công xã được bầu ra để tổ chức và quản lý mọi hoạt động chung trên cơ sở những luật tục, tục lệ mang tính chất bình đẳng, dân chủ của cộng đồng công xã. Đây chỉ là những lệ làng và hầu như chưa được đúc kết lại thành một văn bản mà chỉ tồn tại dưới dạng khẩu truyền, nhưng lại có giá trị chuẩn định các hành vi của các thành viên trong cộng đồng rất cao”[1]. Như vậy, trong buổi đầu hình thành nhà nước phong kiến Việt Nam, chính quyền Trung ương chưa có ảnh hưởng nhiều đến làng xã và nhận thức của người dân về 'làng' và 'nước' như hai thực thể có sự tách biệt tương đối. Điều đó dẫn tới quá trình nhà nước phong kiến Trung ương tiến xuống chi phối hoạt động làng xã là một quá trình phức tạp, lâu dài và khó khăn. Bởi người dân làng quê vốn quen với những tập tục của mình.

Trong 1000 năm Bắc thuộc, người Việt không ngừng củng cố sự gắn kết cộng đồng làng xóm của riêng mình, để dựa vào đó mà đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả ách nô dịch và mưu đồ đồng hóa của chính quyền phong kiến phương Bắc. Thời điểm lúc đó làng xã Việt Nam cơ bản vẫn là các làng tự trị. Hậu thời kỳ Bắc thuộc, làng Việt vẫn bảo tồn được bản sắc riêng biệt dù đã tiếp biến nhiều yếu tố văn hóa phương Bắc. Điều này minh chứng cho vai trò của tính 'khép kín', thậm chí là sự 'biệt lập' tương đối của làng xã cổ truyền trong việc tạo dựng một 'thành trì' văn hóa vững chắc, chống lại áp lực đồng hóa của các triều đại đô hộ.

Sự bền vững của thiết chế và sự cố kết chặt chẽ của làng xã cổ truyền Việt Nam đã làm cho chính quyền đô hộ phương Bắc dù rất mạnh mẽ đã thất bại trong việc “xâm nhập sâu” vào làng xã người Việt. Nên chính quyền phong kiến Việt Nam khi mới thành lập chưa thể ngay lập tức có ảnh hưởng đến làng xã, dù đó là một bộ phận không thể tách rời với nhà nước Trung ương tập quyền. Để củng cố quyền lực nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền, việc hoàn thiện bộ máy cai trị của nhà nước phong kiến Việt Nam được đặc biệt chú trọng. Cùng với sự ra đời của chính quyền cấp xã, cấp thôn (làng, bản…) cũng được xác lập như một đầu mối quan trọng. Đây là cơ chế trung gian nhằm gắn kết và điều hòa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, chính trị và xã hội, luật pháp nhà nước và tục lệ làng xã để quản lý xã hội hiệu quả, đảm bảo sự ổn định, tập quyền và gắn kết quốc gia, điển hình là các triều Lý, Trần, Lê sơ, mà nổi bật nhất là thời Vua Lê Thánh Tông. Bởi lẽ, “nếu nhà nước phong kiến chỉ quan tâm đến quyền thống trị của riêng mình mà không chấp nhận nhu cầu tự trị của làng xã, tức là đã đẩy làng xã về phía đối lập, và trong thực tế không nắm được quyền quản lý làng xã đó. Trái lại, nếu nhà nước buông xuôi phó mặc cho làng xã tùy tiện vận hành thì cũng có nghĩa là nhà nước đã tự mình bỏ mất quyền quản lý làng xã. Cùng với quá trình phong kiến hóa xã hội Việt Nam ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, những cố gắng của triều đại Lý, Trần, Lê trong quá trình từng bước vươn xuống nắm lấy và sử dụng làng Việt cổ như một công cụ quản lý của mình, đã tạo tiền đề cho những thành tựu của Lê Thánh Tông trong việc tổ chức và quản lý nông thôn hồi cuối thế kỷ XV”[2]. Có thể khẳng định, “Lê Thánh Tông là ông vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã đưa ra phương án tối ưu để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và truyền thống tự trị của xóm làng, mặc dù kiên quyết xây dựng chính thể quân chủ tập trung, để đề cao pháp luật thống nhất, nhưng Lê Thánh Tông vẫn cho các làng lập hương ước riêng”[3]. Đó là biểu hiện tính tự trị ở mức độ nhất định của làng xã cổ truyền Việt Nam với chính quyền phong kiến, nhưng sự ra đời của hương ước đã chứng tỏ mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã là không thể tách rời, trong giải quyết những vấn đề lớn như chống giặc ngoại xâm, đắp đê làm thủy lợi cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp và bảo vệ đời sống của các cộng đồng…

Mặc dù, hương ước là các điều khoản hay quy ước về nhiều mặt của đời sống làng xã trên cơ sở những tục lệ, tập quán riêng của mỗi làng: sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường, cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội, bảo vệ an ninh, thờ cúng, khuyến học... Nhưng những điều khoản của hương ước cần được xây dựng dựa trên nguyên tắc không được trái với phép nước, không được gây phương hại đến pháp luật hiện hành của chính quyền phong kiến. Đồng thời, việc soạn thảo hương ước phải là những bậc túc nho, là người đứng tuổi, có đức hạnh giúp việc soạn thảo và phải trình lên quan chức các công môn xem xét các điều lệ và phê chuẩn hay bác bỏ[4].  Từ đó có thể thấy rằng, hương ước được xây dựng phải đảm bảo hài hòa hai yếu tố luật nước và lệ làng. “Lệ làng được khai thác đến mức tối đa, dù được trình bày hết sức cụ thể, chi tiết nhưng vẫn phải phục tùng quyền lợi nhà nước. Luật nước là chuẩn mực là thước đo, là nguyên tắc chuẩn định lệ làng”[5].

Các hương chức tại nhà hội đồng làng Niệm Hạ, nay thuộc xã Vũ Ninh, huyện Kiến Xương (ảnh tư liệu - chụp năm 1928). Nguồn: baothaibinh.com.vn

Bằng việc hình thành hương ước thì nhà nước phong kiến đã bước đầu can thiệp được vào làng. “Quá trình can thiệp vào làng, dần dần biến làng thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở và đương nhiên là quá trình hạn chế và thu hẹp dần quyền tự trị của làng xã. Tất nhiên, làng xã dù là đơn vị "ít đối kháng nhất" cũng không bao giờ dễ dàng chấp nhận ngay sự can thiệp này và khi ngấm ngầm khi công khai đã tìm mọi cách chống lại sự can thiệp của nhà nước. Cuộc đấu tranh giữa làng và nhà nước, giữa tục lệ và pháp luật, giữa truyền thống tự trị và cách tổ chức quản lý tập trung thống nhất, khiến nhà nước không thể không nhân nhượng nhất định với làng xã trên cơ sở quyền quản lý của mình”[6]. Do vậy, hương ước ra đời đã góp phần điều hòa lợi ích giữa làng và nước trên cơ sở vừa đáp ứng nhu cầu tự trị, tự quản của làng xã truyền thống vừa khẳng định vai trò, quyền quản lý của nhà nước.

Tóm lại, hương ước là một sản phẩm đặc thù của tiến trình lịch sử Việt Nam – nơi giao thoa giữa tính tự trị làng xã và quyền lực trung ương tập quyền. Từ những lệ tục truyền miệng, hương ước đã được nhà nước phong kiến "văn bản hóa" và chuẩn mực hóa thành công cụ quản lý xã hội cơ sở hữu hiệu. Quá trình này phản ánh bước chuyển quan trọng trong quan hệ "Làng – Nước": từ hai thực thể biệt lập dần tiến tới sự gắn kết chặt chẽ, nơi pháp luật nhà nước khéo léo dung hòa và tận dụng sức mạnh nội tại của lệ làng. Không chỉ góp phần ổn định xã hội và bảo tồn bản sắc, hương ước còn là minh chứng cho khả năng thích ứng tuyệt vời của làng Việt. Những giá trị về sự dung hòa giữa tập quyền và tự trị ấy vẫn vẹn nguyên ý nghĩa trong quản trị xã hội Việt Nam đương đại.

Tài liệu tham khảo

  1. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  2. Phạm Hồng Tung (2010), Văn hóa Chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa Chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  3. Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.

 

[1]Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H, tr. 63.

[2] Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H, tr. 64.

[3] Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H, tr. 64.

[4] Xem: Mai Lý (2013), “Hương ước làng thời xưa”, https://baocantho.com.vn/huong-uoc-lang-thoi-xua-a20791.html, truy cập 24/12/2025.

[5] Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H, tr. 66.

[6] Đào Trí Úc (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, H, tr.  65.