Tri thức bản địa là nguồn lực nội sinh quan trọng, gắn với lịch sử, văn hóa và kinh nghiệm sản xuất của cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS). Việc khai thác và phát huy đúng hướng nguồn tri thức này không chỉ góp phần tạo sinh kế bền vững mà còn hỗ trợ giảm nghèo, bảo tồn bản sắc và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở vùng DTTS hiện nay.

Nhà của người Ê-đê. Ảnh: Báo Nhân dân
Tri thức bản địa, hay còn gọi là tri thức địa phương, kiến thức dân gian, bản sắc văn hóa tộc người, tập tục truyền thống là hệ thống hiểu biết được hình thành trong quá trình tương tác lâu dài giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Trên thế giới, thuật ngữ “Tri thức bản địa” được dùng lần đầu trong ấn phẩm của Robert Chambers (1979), sau đó được Brokensha và D.M. Warren sử dụng và phát triển [1]. D.M. Warren định nghĩa: “Tri thức bản địa là những hệ thống tri thức và thực nghiệm được phát triển qua nhiều thế hệ trong một lĩnh vực cụ thể tới một nền văn hóa chuyên biệt”[2]. Đây là loại tri thức gắn bó mật thiết với lịch sử hình thành, được tích lũy và truyền thừa qua nhiều thế hệ.
Trong đời sống xã hội, khác với tri thức khoa học hiện đại, kho tàng các tri thức bản địa có đặc điểm về tính lịch sử và cộng đồng, tính đa dạng và tích hợp, tính thích ứng và linh hoạt, tính thực tiễn và tính bị đe dọa (dễ mai một trong quá trình hiện đại hóa).
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS, các tri thức bản địa có ý nghĩa lớn, là giải pháp góp phần giảm nghèo bền vững. Tri thức bản địa là phương thức quan trọng để bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gắn với sinh kế. Đồng thời, nguồn tri thức này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và thúc đẩy sự tham gia chủ động của người dân trong phát triển. Đây cũng là cầu nối quan trọng giúp người dân tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào các chương trình phát triển tại địa phương.
Bên cạnh đó, tri thức bản địa của cộng đồng DTTS đã tạo ra cảm giác quen thuộc và gắn bó cho người dân khi tham gia vào các mô hình phát triển. Việc vận dụng tri thức bản địa giúp nâng cao tính tự tin và tinh thần trách nhiệm của người dân, sự tham gia chủ động còn được thúc đẩy thông qua cơ chế tự quản, dựa trên luật tục, phong tục tập quán vốn đã tồn tại lâu đời trong cộng đồng, đồng thời khai thác tri thức bản địa đồng nghĩa với bảo vệ bản sắc văn hóa và củng cố cộng đồng.
Tuy nhiên quá trình đó cũng có những thách thức đang đặt ra trong khai thác tri thức bản địa ở vùng DTTS. Tri thức bản địa đang đứng trước nguy cơ mai một dưới tác động của biến đổi văn hóa và thay đổi lối sống trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa. Nhiều giá trị truyền thống, tập tục, nghề thủ công, kỹ thuật sản xuất bản địa không còn được kế thừa. Việc sử dụng tiếng dân tộc giảm sút cũng khiến khả năng truyền đạt tri thức qua hình thức truyền khẩu gặp khó khăn, dẫn đến nguy cơ thất truyền nhanh chóng những tinh hoa bản địa.
Hiện vẫn thiếu cơ chế, chính sách rõ ràng và nhất quán trong bảo tồn, khai thác và phát huy tri thức bản địa. Khung pháp lý về bảo vệ, khai thác tri thức bản địa ở Việt Nam còn chưa đầy đủ, chưa có luật riêng hay quy định cụ thể về quyền sở hữu tri thức bản địa, nhất là với cộng đồng DTTS. Bên cạnh đó là tình trạng thiếu nguồn nhân lực có khả năng kết nối giữa tri thức bản địa và khoa học hiện đại. Nhiều tri thức bản địa chỉ tồn tại dưới dạng truyền miệng, mang tính biểu tượng.
Ngoài ra, các thách thức từ chính cách tiếp cận của một số chương trình phát triển chưa thực sự đặt vị trí vai trò của cộng đồng DTTS vào trung tâm. Điều này cho thấy, nếu không tôn trọng tri thức bản địa và vai trò chủ thể của cộng đồng, các giải pháp phát triển dù có thiện chí đến đâu cũng khó phát huy hiệu quả lâu dài. Trong khi đó, còn thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích khi khai thác giá trị tri thức bản địa. Nhiều giá trị tri thức bản địa, nhất là trong lĩnh vực y học dân gian, dược liệu, giống cây quý, phương pháp bảo vệ rừng… đã bị các đơn vị bên ngoài khai thác mà không có sự tham vấn hay chia sẻ lợi ích công bằng với cộng đồng chủ sở hữu.

Trình diễn cồng chiêng trong lễ hội cầu mưa tại Di tích lịch sử-văn hoá quốc gia Plei Ơi. Ảnh Đức Thụy - Báo Gia Lai
Để phát huy tri thức bản địa nhằm giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào DTTS, cần tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương về vai trò của nguồn tri thức này. Đồng thời tạo điều kiện cho việc lập hồ sơ, sưu tầm, số hóa và khai thác tri thức truyền thống theo hướng bền vững, có sự tham gia của người dân, các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp địa phương.
Cùng với đó, cần thể chế hóa và lồng ghép tri thức bản địa vào chính sách phát triển vùng DTTS. Để tri thức bản địa thực sự trở thành nguồn lực phát triển, Nhà nước cần có cơ chế rõ ràng trong việc ghi nhận, bảo vệ và ứng dụng tri thức bản địa vào các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội. Việc ban hành quy định về điều tra, tư liệu hóa và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tri thức bản địa cần được đẩy mạnh. Đồng thời, các chính sách giảm nghèo cần được thiết kế theo hướng đa chiều, linh hoạt, có sự lồng ghép và tùy biến theo đặc thù vùng miền, thay vì áp dụng rập khuôn các mô hình từ bên ngoài.
Song song với đó là việc chú trọng vào vai trò chủ thể của cộng đồng các DTTS trong quá trình phát triển. Cần khẳng định cộng đồng là người hiểu rõ nhất về điều kiện tự nhiên xã hội của mình. Trong mọi chương trình giảm nghèo, người dân phải được tham gia từ khâu thiết kế đến triển khai, giám sát và đánh giá. Những thiết chế truyền thống như già làng, trưởng bản, người có uy tín chính là người nắm giữ kho tàng tri thức bản địa cần được phát huy vai trò làm cầu nối giữa chính sách và thực tiễn, giữa kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm bản địa.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giáo dục và truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về giá trị của tri thức bản địa, nhất là trong bối cảnh nhiều người dân, đặc biệt là giới trẻ, đang dần xa rời tri thức truyền thống. Do đó, giáo dục cộng đồng về bảo tồn tri thức bản địa cần được lồng ghép vào các chương trình học đường, lớp tập huấn, hoạt động truyền thông bằng chính tiếng nói địa phương. Cần thúc đẩy việc phát triển đội ngũ trung gian có khả năng kết nối tri thức bản địa với khoa học hiện đại. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, chuyên gia phát triển, nhà nghiên cứu… cần được đào tạo không chỉ về chuyên môn mà còn về kỹ năng làm việc liên văn hóa và tiếp cận dựa vào cộng đồng.
Ngoài ra, việc hỗ trợ cộng đồng bản địa khai thác tri thức truyền thống để tạo sinh kế mới là rất cần thiết. Các mô hình phát triển kinh tế dựa trên tri thức bản địa như du lịch sinh thái cộng đồng, sản xuất nông sản đặc sản theo chuỗi giá trị, bảo tồn giống cây trồng vật nuôi bản địa, thuốc nam cổ truyền… cần được hỗ trợ mạnh mẽ từ cơ chế pháp lý, vốn, thị trường và chuyển giao công nghệ. Nhà nước có thể ban hành các cơ chế ưu đãi về thuế, cấp quyền sở hữu tài sản trí tuệ cho các sản phẩm có nguồn gốc từ tri thức truyền thống, qua đó vừa giúp người dân tăng thu nhập, vừa bảo tồn giá trị văn hóa bản địa.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc (1998), Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Nguyễn Danh Tiên (2014), Tri thức bản địa, truy cập tại https://lyluanchinhtri.vn/tri-thuc-ban-dia-3076.html
3. Dương Quỳnh Phương, Nguyễn Xuân Trường, Đồng Duy Khánh (2022), Tri thức bản địa và tri thức khoa học trong phát triển nông, lâm nghiệp ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Tạp chí Khoa học và công nghệ TNU, số 227.
4. Đồng Thị Thanh , Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Bá Long, Hoàng Cằn Dương (2020), Tri thức bản địa trong nông lâm nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu của người Dao tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, Tạp chí Khoa học và công nghệ Lâm nghiệp số 1.
