Cách đây 85 năm, vào đêm 22 rạng ngày 23/11/1940, một sự kiện lớn không chỉ chấn động trong trong nước, mà còn vang vọng trên phạm vi thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, nhân dân nhiều tỉnh Nam Kỳ đã đồng loạt nổi dậy tiến công các trụ sở, trại lính của chính quyền thực dân Pháp. Cuộc khởi nghĩa thể hiện khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Kỳ nói riêng

Chuẩn bị khởi nghĩa

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ thứ bùng nổ. Từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Tân Thới Nhất (Bà Điểm, Gia Định), Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp, ra nghị quyết nhận định đây là cuộc chiến tranh đế quốc, là thời cơ để các nước thuộc địa, hết thảy các dân tộc bị áp bức vùng dậy tranh đấu vứt bỏ ách nô lệ. Hội nghị quyết định thay đổi đường lối chiến lược: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước tiên; chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay thế cho Mặt trận Dân chủ trước đây và dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, tháng 3/1940, Xứ ủy Nam Kỳ phát hành quyển Đề cương chuẩn bị bạo động. Các đội vũ trang được tổ chức, luyện tập, mua sắm, sản xuất vũ khí thô sơ và còn "hy vọng có được vũ khí hiện đại nhờ công tác địch vận[i].

Hội nghị Xứ ủy mở rộng họp từ 21 đến ngày 27/7, tại Tân Hương (Châu Thành, Mỹ Tho) kiểm điểm các công việc đã làm, quyết định đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa, quyết định về các khẩu hiệu cách mạng, việc tổ chức chính phủ lâm thời v.v. Kết thúc Hội nghị, đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, nhận trách nhiệm ra Bắc liên hệ với các đảng bộ Trung Kỳ và Bắc Kỳ bàn việc phối hợp hành động.

Từ ngày 21 đến 23/9, Hội nghị đại biểu toàn xứ Nam Kỳ họp tại Tân Xuân (Hóc Môn, Gia Định) tiếp tục khẳng định quyết tâm khởi nghĩa và chọn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn làm trọng điểm và là nơi phát lệnh khởi nghĩa chung cho toàn Nam Kỳ.

Từ ngày 06 đến ngày 09/11/1940, đồng chí Phan Đăng Lưu dự Hội nghị Trung ương họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị tiếp tục khẳng định chủ trương khởi nghĩa vũ trang; thúc đẩy sự hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế; nhìn nhận rõ kẻ thù của nhân dân không chỉ là đế quốc Pháp mà là đế quốc, phát xít Pháp và Nhật; và có những chỉ thị về những công tác cấp bách khác. Về khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Hội nghị nhận định "chúng ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng", nhưng "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"[ii]. Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo về tình hình trong Nam và chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị thấy điều kiện khách quan và chủ quan chưa chín muồi bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi nên quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa. Hội nghị giao trách nhiệm cho đồng chí Phan Đăng Lưu trở về Nam Kỳ truyền đạt quyết định này đến Xứ ủy Nam Kỳ.

Khởi nghĩa tại Bến Tre (Ảnh tư liệu)

Trong khi đó, ngày 15/11, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Hóc Môn để nghe báo cáo, thảo luận về công tác chuẩn bị khởi nghĩa, về lực lượng quân sự, cách bố phòng của Pháp. Đa số ý kiến của hội nghị cho rằng phát động khởi nghĩa lúc này là thuận lợi. Hội nghị quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy "giành lấy chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Ngày 20/11, Thường vụ Xứ ủy họp khẩn cấp hạ lệnh cho tất cả các nơi nổi dậy vào 24 giờ, ngày 22/11/1940 [iii].

Trên đường trở về Nam Kỳ, Phan Đăng Lưu còn thực hiện nhiệm vụ phổ biến nghị quyết của Hội nghị Trung ương cho các cấp đảng bộ Trung Kỳ[iv]. Ngày 22/11, đồng chí mới vào tới Sài Gòn và ngay lập tức bị bắt.

Khí thế "xung Thiên"

Lệnh khởi nghĩa đã được ban hành tới các địa phương và cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch. Do có nội gián nên kế hoạch khởi nghĩa bị lộ từ sớm. Chính quyền thực dân đã có các biện pháp phòng chống. Ngày 22/11/1940, Bí thư thành ủy Nguyễn Như Hạnh bị bắt vào buổi sáng và Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên - Trưởng Ban khởi nghĩa của Xứ ủy kiêm Trưởng ban khởi nghĩa thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn bị bắt vào buổi chiều. Cuộc họp của Ban khởi nghĩa Thành để nhận lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, dự kiến vào 12 giờ cùng ngày không có. Chính quyền thực dân ra sức bắt bớ, vây ráp. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn vì thế không có khởi nghĩa.

Đêm ngày 22 rạng 23/11/1940, theo lệnh khởi nghĩa đã phát, lực lượng vũ trang cách mạng và quần chúng trên khắp Nam Kỳ đã nổi dậy tiến công địch ở cấp xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ. Tin tức về cuộc khởi nghĩa lập tức lan khắp thế giới. Ngày 25/11, báo Mỹ đưa tin: "Những người An Nam vũ trang, tìm cách gây bạo loạn, đã bao vây trại lính Đông Dương tại Sài Gòn vào ngày 22/11 nhưng đã bị bắt giữ … Chính phủ Đông Dương đã ban hành một thông cáo khẳng định rằng "các điệp viên Cộng sản" phải chịu trách nhiệm về cuộc bạo loạn”[v].

Nghĩa quân cắt đường dây điện báo ngay từ ngày đầu khởi sự và mãi đến ngày 14/12/1940 đường dây này mới được khôi phục.[vi] Một số thị trấn (Mỹ Tho, Hiệp Hòa) vuột khỏi sự kiểm soát của người Pháp. Cờ đỏ sao vàng phất phới lần đầu tiên tại Cao Lãnh[vii]. Chính quyền cách mạng được thành lập ở một số nơi.

Đó là khí thế của một cuộc "tiến công Trời" (xung Thiên – storming Heaven) như lời của C. Mác khi viết về các chiến sĩ Công xã Paris trong thư gửi bác sĩ Kugelmann (12/4/1871).

Tuy nhiên, do các điều kiện khởi nghĩa vũ trang chưa chín muồi, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ nên thực dân Pháp đã đối phó kịp thời và đàn áp khốc liệt. Đến ngày 14/12, đã có 1.000 người bị bắt. Nhà giam hết chỗ nên chính quyền thực dân phải nhốt 400 người vào các tàu viễn dương ở cảng Sài Gòn chờ xét xử.[viii] Kết quả là "Nhiều thị trấn bị không quân san bằng, sáu nghìn người bị bắt, tất cả các nhà tù không còn chỗ trống … Tại các bến nổi trên sông Sài Gòn, người ta chen chúc nhau, kẻ đứng, người ngồi, dây thép xâu qua tay người nọ vào với người kia, ban đêm có đền pha chiếu sáng"[ix].

Không có số liệu thống nhất về thương vong. Theo một nghiên cứu ở nước ngoài công bố năm 2012 "con số gần như chắc chắn vượt quá hai nghìn. Lên đến tám nghìn bị giam giữ, một số sau đó chết trong tù hoặc bị xử tử", trong khi đó phía chính quyền chỉ có "ba người Pháp và ba mươi lính hoặc các nhân vật có tiếng tăm của Việt Nam bị giết"[x].

Theo số liệu của thực dân Pháp, từ ngày 22/11 đến hết ngày 31/12/1940, có 5.848 người bị bắt; trong tháng 01/1941, thêm 1200 người bị bắt, nâng tổng số lên 7.048 người. Từ tháng 01/1941 đến hết năm, tòa án thực dân xét xử 2258 người, trong số này có 158 người bị xử tử hình, 180 người bị xử chung thân, số còn lại bị kết án từ 5 năm đến 20 năm khổ sai cộng với ngần ấy năm quản thúc[xi]. Các lãnh đạo của Đảng là Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai bị chính quyền thực dân mang ra xử tử với cáo buộc phải chịu trách nhiệm về tinh thần đối với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Còn rất nhiều người hy sinh trong chiến đấu; bỏ mạng trong các cuộc ném bom, càn quét, bệnh tật trong nhà tù, v.v. của kẻ thù mà đến nay vẫn chưa thể thống kê hết. Đây là cuộc đàn áp quy mô và đẫm máu nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.

Sức mạnh to lớn của khởi nghĩa Nam Kỳ - Ảnh 1.

Ý chí quật cường của nhân dân Nam Kỳ trong cuộc khởi nghĩa (Ảnh tư liệu)

Cũng như bao phong trào yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh dũng vì độc lập tự do của quê hương đất nước mà chính nhà cầm quyền thực dân khi chứng kiến, cũng phải khâm phục.

Đồng chí Nguyễn Thị Bảy, tỉnh ủy viên tỉnh Chợ Lớn, Bí thư quận ủy Cần Giuộc, đồng chí Phan Ngọc Hiền, chỉ huy trận đánh chiếm Hòn Khoai, đồng chí Ngô Kinh Luân, Bí thư chi bộ Rạch Gốc … cùng nhiều đồng chí khác lúc bị xử bắn đã hô to: "đả đảo đế quốc Pháp! Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm", "Độc lập muôn năm".

Báo cáo của thực dân Pháp ghi lại rằng trước khi bị bắn, đồng chí Ngô Kinh Luân (Cà Mau) hô to: "Ôi! Hỡi đồng bào dân tộc! Tôi sắp chết vì Tổ quốc, vì giống nòi! Cách mạng thế giới thành công! …"

Họ đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"!

Thật là "Anh hùng tử khí hùng bất tử"!

Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra vì không nhận được quyết định đình chỉ, Trung ương Đảng đã nhanh chóng có những chỉ đạo cụ thể đối với Xứ ủy Nam Kỳ và các đảng bộ trên cả nước để duy trì phát huy thanh thế và chia lửa với Nam Kỳ. Trung ương cũng cử cán bộ vào Nam Kỳ liên hệ với Xứ ủy mới được lập lại để truyền đạt ý kiến. Nhưng sau đó, Xứ ủy mới lập lần lượt bị bắt nên Trung ương lại đứt liên lạc với Xứ ủy.

Giá trị trường tồn

Khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền lớn nhất trong lịch sử chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kể từ sau Khởi nghĩa Trương Định. Quy mô của cuộc khởi nghĩa thể hiện khát vọng độc lập tự do của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cuộc khởi nghĩa cũng thể hiện uy tín của những người cộng sản đối với quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Khởi nghĩa Nam Kỳ cho thấy rõ sức mạnh “lật thuyền” như nước của nhân dân vì thế Đảng phải luôn gắn bó máu thịt với dân, vì dân, “lấy dân làm gốc”.

Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ.

Khởi nghĩa Nam Kỳ mang lại những bài học thực tiễn rất xương máu, sâu sắc và nghiêm khắc về khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đó là những bài học về chuẩn bị lực lượng; về lựa chọn thời cơ; về sự phối hợp giữa các địa phương; về khởi nghĩa từng phần nhưng không đơn độc; về yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; về phòng gian bảo mật, v.v.

Những bài học đó vô cùng quý giá đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng về sau.

 

[i] Trần Văn Giàu: Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr. 1478.

[ii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 58.

[iii] Trần Giang: Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 78.

[iv] Trần Giang, sách đã dẫn, tr. 74

[v] “Japanese Report Saigon Riot”, The New York Times, November 25, 1940, p.8.

[vi] The New York Times, Sunday, December 15, 1940, p. 7.

[vii] Lê Thành Khôi: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 2014, tr. 550.

[viii] The New York Times, Sunday, December 15, 1940, p. 7.

[ix] Lê Thành Khôi, sách đã dẫn, tr. 550.

[x] Gluckstein, Donny. "Vietnam – Anti-Imperialist Breakthrough." In A People's History of the Second World War: Resistance Versus Empire, 193-206. London: Pluto Press, 2012. Accessed October 8, 2020. doi:10.2307/jctt183p5p8.19.

[xi] Trần Giang, sách đã dẫn, tr. 302-304.