Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, trong đó có kiều bào - người Việt Nam ở Lào, Thái Lan, Campuchia và Pháp

Gây dựng cơ sở cách mạng, hướng về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1930, tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc luốn chú ý vận đồng kiều bào ủng hộ ơhong trào cách mạng trong nước. Người cho rằng: “Phải nhẫn nại, làm cách mạng đi vận động tuyên truyền giáo dục quần chúng mà nếu quần chúng tốt cả rồi thì không cần vận động gì nhiều. Quần chúng đó đều là đồng bào Việt Nam nghèo khổ, mất nước mới chạy sang đây. Đó là cơ sở tốt để vận động cách mạng. Hãy đến đó chọn gia đình nào xấu nhất, hư nhất mà vận động họ, khi nào họ thấy mến ta thì khơi dậy tinh thần yêu nước của họ. Các gia đình xung quanh thấy gia đình này tốt họ sẽ tin tưởng ta”[1].

Thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Thái Lan tuy không dài, nhưng đã góp phần hình thành cộng đồng người Việt Nam yêu nước, đoàn kết, hướng về cuộc đấu tranh cách mạng ở quê hương.

Trong những năm 1940-1945, một số sỹ quan, cảnh sát, trí thức và công chức Lào có tinh thần dân tộc sang Thái Lan tìm đường liên lạc với đồng minh chống Nhật, Pháp. Tại đây, họ bắt mối liên lạc được với tổ chức Việt kiều ở Thái Lan và được Đảng Thái tự do giúp đỡ đấu tranh chống Nhật. Tháng 01/1943, Ban Vận động Việt kiều Lào - Thái được thành lập tại tỉnh Nakhon Phanom (Đông Bắc Thái Lan)[2].

Tháng 10/1943, Hồ Chí Minh thoát khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc), liên lạc được với tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Người tham gia chủ trì Hội nghị đại biểu các tổ chức của Việt kiều tại Trung Quốc nhằm kêu gọi Việt kiều đoàn kết với nhân dân trong nước đứng lên đánh giặc cứu nước, giành độc lập cho dân tộc.

Trong tiếp xúc với kiều bào, Người luôn chú ý khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của người Việt Nam; đồng thời vận động, chỉ đạo phong trào Việt kiều hoạt động đúng hướng.

Ngày 25/10/1944, Tổng bộ Việt Minh gửi thư cho kiều bào và các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở hải ngoại, kêu gọi Việt kiều ở hải ngoại, nhất là ở Trung Quốc hãy dẹp bỏ mọi thành kiến, chia rẽ, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, hướng về quê hương, đoàn kết cùng đồng bào trong nước chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.

Kiều bào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp năm 1946 (Ảnh tư liệu)

Tại Quốc dân Đại hội Tân Trào (8/1945), Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng luôn quan tâm, ưu tiên thời gian phát biểu; đồng thời, gặp gỡ, trao đổi cụ thể về đời sống và hoạt động cách mạng của kiều bào.

Khi gặp gỡ các đại biểu từ Lào -Thái về dự Hội nghị Tân Trào, Hồ Chí Minh dặn dò: “Ở hải ngoại xa xôi, anh em làm được như thế là rất tốt. Phải đoàn kết nội bộ. Làm cái gì thì làm, cũng phải đoàn kết nội bộ. Càng đoàn kết bao nhiêu càng thắng lợi bấy nhiêu.”[3]

Từ tháng 2 đến tháng 4/1945, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Người thông tin tình hình cách mạng Việt Nam cho Việt kiều ở Nghi Lương (Vân Nam), kêu gọi họ trở về tham gia đấu tranh và trực tiếp lựa chọn 20 thanh niên Việt Nam ở Vân Nam về nước hoạt động.

Tại Côn Minh, khi bàn về việc chiêu đãi phúc đáp phái đoàn Mỹ, Người căn dặn vợ chồng đồng chí Tống Minh Phương - đại diện tiêu biểu cho Việt kiều yêu nước tại Trung Quốc: “Tôi biết cô chú cũng không giàu có gì, nhưng đây là một việc cần làm, có thể nói là việc “quốc gia đại sự”, cô chú cố gắng giúp đỡ, mai sau cách mạng thành công, nước nhà sẽ không quên công lao của cô chú.”[4]

Đáp lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đông đảo kiều bào, những người Việt Nam sống xa Tổ quốc, nhất là ở Lào, Thái Lan đã có nhiều hoạt động thiết thực hưởng ứng phong trào cách mạng trong nước, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 28/3/1945, tại chiến khu Sakol Nakhon, Tổng hội Việt kiều Lào - Thái đã tập hợp những thanh niên ưu tú thành lập lực lượng vũ trang Việt kiều lấy tên là Việt Nam Độc lập quân. Không những tham gia khởi nghĩa giành chính quyền trên đất bạn Lào, nhiều Việt kiều sau khi chạy sang Thái Lan đã tham gia vào các đội quân trở về quê hương đấu tranh giành và giữ chính quyền ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Những tiếng hát: “Trên sông Bạch Đằng, quân Nam ầm reo…” và “Thanh niên hành khúc”… vọng từ tả ngạn sông Cửu Long như giục giã những Việt kiều yêu nước phải vượt qua mọi khó khăn để lên đường về nước chiến đấu.

Tháng 4/1945, Tổng hội Việt kiều Thái Lan, một mặt phái người về nước để liên lạc với Tổng bộ Việt Minh; mặt khác bắt mối liên hệ anh em với Đảng Thái tự do. Được sự giúp đỡ của Đảng này và Đảng “Lào pên lào” (nước Lào của người Lào), đã tổ chức được một địa điểm bí mật cho thanh niên Việt kiều cùng thanh niên Lào luyện tập quân sự[5].

Từ năm 1939 đến năm 1945, nhiều người Việt đã chọn khu vực miền trung giữa Savanakhet, Khăm Muộn và một phần phía nam cao nguyên Bôlôven làm nơi định cư chủ yếu, với số lượng khoảng 39.500 người[6].

Với kiều bào ở Campuchia, sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, một số cán bộ, đảng viên đã tránh sự truy đuổi của kẻ thù, đã đến cư trú tại cộng đồng người Việt, qua đó tuyên truyền đường lối của Đảng, giác ngộ ý thức cách mạng, đưa Việt kiều yêu nước vào tổ chức bí mật.

Tháng 02/1945, tổ chức Việt Kiều ở Campuchia được đưa vào hệ thống tổ chức Việt Minh của tỉnh Châu Đốc. Khi khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn – Gia Định thắng lợi, để nhanh chóng cướp chính quyền về tay nhân dân, Tỉnh ủy Châu Đốc đã chỉ thị cho cán bộ Việt Kiều huy động hàng ngàn kiều bào yêu nước từ huyện Srok Peam tự trang bị giáo mác, gậy gộc về nước cùng đồng bào Châu Đốc chiếm huyện lỵ Hồng Ngự, Tân Châu và thị xã Châu Đốc.

Có thể thấy, phong trào đấu tranh cách mạng và tinh thần hướng về Tổ quốc của người Việt ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc đã có những đóng góp nhất định vào thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở trong nước và đây cũng là phong trào yêu nước ở hải ngoại hiếm có trong lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc trên thế giới.

Kiều bào tại Thái Lan tổ chức kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, năm 2020 (Ảnh tư liệu)

Góp phần bảo vệ nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi, động viên đồng bào ta ở nước ngoài phát huy tinh thần yêu nước, tranh thủ nhân dân sở tại, ủng hộ đất nước.

Tháng 9/1945, chỉ huy bộ đội Việt kiều Giải phóng quân Viên Chăn (Lào) được thành lập gồm 5 người[7]. Lực lượng Việt kiều Giải phóng quân Viên Chăn có 1 tiểu đoàn gồm 4 đại đội và 2 trung đội trợ chiến với quân số 520 người. Các đại đội trưởng hầu hết đều đã từng là cai, đội lính khố xanh, khố đỏ của quân Pháp. Vũ khí có cả pháo 20 mm, đại liên 13, 2mm và nhiều súng phóng lựu đạn của Nhật và các loại vũ khí khác[8].

Hưởng ứng Tuần lễ vàng do Chính phủ Việt Nam phát động, Việt kiều ở Lào đã tổ chức tuần lễ quyên góp vàng để mua sắm vũ khí gửi về nước; quyên góp tiền, gạo giúp đồng bào gặp khó khăn.

Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Nam Bộ (23/9/1945), Việt kiều đã tổ chức những đơn vị tình nguyện về nước tham gia chiến đấu. Kiều bào ở Xavannakhét (Lào) gửi thư tới đồng bào Nam Bộ, bày tỏ sự căm phẫn khi nghe quân Pháp đe dọa dùng khí giới tối tân để tàn sát đồng bào; đồng thời, mong muốn sát cánh cùng đồng bào Nam Bộ chiến đấu chống quân thù.

Với lòng yêu nước, căm thù giặc, dù ở xa quê hương nhưng kiều bào ta vẫn hướng về Tổ quốc, hướng về cuộc kháng chiến của toàn dân tộc bằng cả tấm lòng yêu nước, bằng cả bầu nhiệt huyết cách mạng, không tiếc tiền của, không ngại gian nguy. Đó là những đóng góp quý báu cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong cuộc hành quân về Tổ quốc, nhiều “đoàn quân hải ngoại” đã sát cánh chiến đấu cùng bộ đội nước bạn Lào và Campuchia, góp phần xây đắp khối liên minh ba nước Đông Dương trong những ngày đầu kháng chiến.

Ngày 05/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi kiều bào Việt Nam ở Pháp. Sau khi phân tích tính chất chính nghĩa và sự tiếp nối truyền thống đấu tranh bất khuất của ông cha ta trong suốt 80 năm Pháp thuộc; cuộc kháng chiến hiện thời là để bảo vệ nền tự do, độc lập, Người khẳng định: “Lịch sử nước nhà chưa bao giờ trông thấy chúng ta đoàn kết chặt chẽ như ngày nay để biểu dương ý chí mạnh mẽ của một dân tộc thích chết tự do hơn sống nô lệ.”[9]

Người chỉ ra nhiệm vụ của kiều bào là làm cho dân tộc Pháp nghe thấy tiếng nói của Tổ quốc, đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền phản động của thực dân Pháp, nhắc nhở mọi người hãy làm sao xứng đáng với quân và dân Nam Bộ đang anh dũng chiến đấu.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối năm 1945, Việt kiều ở Pháp tổ chức đón chào sự kiện Cách mạng Tháng Tám thành công. Được tin nước nhà độc lập, 2.000 binh lính người Việt ở Bordeaux đã tổ chức mít tinh chào mừng, treo cờ đỏ sao vàng. Đại diện 20.000 Việt kiều ở Pháp đã gửi thư yêu cầu Liên hợp quốc công nhận nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ (23/9/1945), khoảng 2.500 Việt kiều ở Pháp  tổ chức mít tinh, biểu tình phản đối. Lo sợ trước làn sóng đấu tranh quyết liệt của kiều bào, chính quyền địa phương ở Pháp đã khủng bố cuộc biểu tình, bắt 40 người, giam cầm 3 người, cấm các tổ chức Việt kiều hoạt động chính trị.

Ngày 26/12/1945, một số sinh viên Việt Nam học ở Paris tuyên bố tuyệt thực trong 21 giờ để phản đối những hành động khủng bố, tàn sát của quân đội xâm lược Pháp ở Đà Lạt.

Đội ngũ trí thức Việt kiều đã có sáng kiến tổ chức các nhóm sưu tầm tài liệu về kinh tế, khoa học kỹ thuật, xã hội và văn hóa tiên tiến, gửi về nước, góp phần vào công cuộc kiến thiết nước nhà. Những kiều bào giỏi chuyên môn đứng ra mở lớp dạy nghề cho kiều bào chưa có nghề nghiệp, để khi có điều kiện trở về Tổ quốc sẽ góp phần xây dựng đất nước.[10]


[1] Trần Đình Lưu: Việt kiều Lào – Thái với quê hương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.85.

[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Đề tài khoa học: Vai trò của Việt kiều tại Lào, Thái Lan, Campuchia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Hà Nội, 2013, tr. 16

[3] Hồi ký Dương Trí Trung, Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, tr.9.

[4]Nguyễn Văn Khoan: Bác Hồ ở Hoa Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.122-123.

[5] Lê Mạnh Trinh: Cuộc vận động cứu quốc của Việt kiều ở Thái Lan, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961, tr. 51.

[6] Phạm Đức Thành: Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam – Lào, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr.34.

[7] Bao gồm: Vũ Hữu Bình (Tư lệnh), Trần Hoàn (Phó Tư lệnh), Đỗ Huy Rừa (Phó tư lệnh), Vũ Huy Liệu (Tư lệnh chính trị), Đào Mạnh Ruệ (Phó tư lệnh chính trị). Theo Trần Đinh Lưu: Việt kiều Lào – Thái với quê hương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.116.

[8] Phạm Đức Thành (Chủ biên): Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam – Lào, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr.124.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia -Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.101.

[10] Theo Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số 1/1994