Nhận diện các đối tượng chống phá xuyên tạc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
(1) Các tổ chức phản động, thù địch ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tự xưng là “đấu tranh dân chủ”, “bảo vệ nhân quyền” đã lợi dụng không gian truyền thông quốc tế để xuyên tạc mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ sử dụng các báo cáo thiếu khách quan, cắt ghép ngữ liệu, cố tình đưa ra các đánh giá sai lệch về dân chủ, nhân quyền, pháp luật và thể chế chính trị của Việt Nam. Đây là nguồn phát tán có hệ thống, thường gắn với mục tiêu chính trị lâu dài nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
(2) Một số cơ quan, tổ chức nước ngoài thiếu thiện chí. Một số báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí… do các cơ quan, tổ chức nước ngoài ban hành mang đậm định kiến ý thức hệ, thường áp đặt mô hình chính trị phương Tây để đánh giá Việt Nam. Những báo cáo này là nguồn tạo ra hoặc lặp lại các luận điệu như “thiếu nhà nước pháp quyền”, “thiếu độc lập tư pháp”, “hạn chế dân chủ”, “vi phạm quyền con người”.
(3) Các kênh truyền thông chống phá. Nhiều trang web, blog, fanpage, kênh YouTube chống đối thường xuyên khai thác các sự kiện thực tế, đặc biệt là các vụ việc tiêu cực, để quy chụp bản chất chế độ. Họ sử dụng kỹ thuật truyền thông gây nhiễu, giật gân, đưa tin một chiều để tạo cảm giác “có cơ sở”, từ đó lan truyền các luận điệu như “Đảng đứng trên pháp luật”, “bộ máy thiếu minh bạch”, “chỉ tồn tại hình thức pháp quyền”.
(4) Một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn. Một bộ phận cá nhân trong và ngoài nước lợi dụng danh nghĩa “góp ý”, “phản biện xã hội” nhưng thực chất là xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Đảng và Nhà nước. Họ thường dùng các lập luận ngụy tạo, đánh đồng khuyết điểm cục bộ với bản chất chế độ, lan truyền các quan điểm đòi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”.
(5) Các học giả hoặc tổ chức nghiên cứu mang định kiến hệ tư tưởng. Một số bài viết, ấn phẩm, báo cáo mang định kiến tư sản khi đánh giá mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN, cố tình áp đặt tiêu chuẩn phương Tây lên bối cảnh Việt Nam, góp phần tạo ra các luận điểm như “thiếu dân chủ”, “vi phạm pháp trị”, “không phù hợp với giá trị phổ quát”.
(6) Sự tiếp tay vô thức của một số người dùng mạng xã hội. Không ít cá nhân chia sẻ thông tin mà không kiểm chứng, vô tình khuếch tán các luận điệu sai trái. Đây là nguồn lan truyền nhanh nhất và ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Phương thức đấu tranh đối với các đối tượng chống phá xuyên tạc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, đối với luận điệu từ các tổ chức phản động, thù địch ở nước ngoài, cơ sở phản bác quan trọng nhất là tính chính danh và hiến định của mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua đường lối, chủ trương, bằng pháp luật, chứ không đứng ngoài pháp luật. Cùng với đó, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng về quyền con người, đồng thời nội luật hóa các chuẩn mực này trong hệ thống pháp luật quốc gia. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới chứng minh mô hình Việt Nam tạo ra ổn định chính trị, phát triển liên tục, nâng cao đời sống nhân dân, điều mà các luận điệu chống phá cố tình phớt lờ.
Thứ hai, đối với các báo cáo thiếu thiện chí của một số tổ chức nước ngoài, luận cứ phản bác là tính phi khách quan và áp đặt hệ giá trị của những báo cáo này. Họ sử dụng tiêu chí mang tính phương Tây để đánh giá một quốc gia đang phát triển với đặc thù chính trị - văn hóa - lịch sử khác biệt. Chủ nghĩa đa nguyên chính trị, tam quyền phân lập hay tư pháp tuyệt đối độc lập không phải là tiêu chuẩn duy nhất của nhà nước pháp quyền. Trong khi đó, Việt Nam thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát - phù hợp với điều kiện thực tế và vẫn bảo đảm tính pháp quyền hiện đại. Những tiến bộ về cải cách tư pháp, xây dựng pháp luật, phòng chống tham nhũng và cải thiện các chỉ số xã hội là bằng chứng bác bỏ các đánh giá phiến diện.
Thứ ba, đối với các kênh truyền thông chống phá, cần chỉ rõ việc họ khai thác hiện tượng để quy chụp bản chất, cố tình bỏ qua những nỗ lực chỉnh đốn của Đảng và Nhà nước. Những vụ tiêu cực bị xử lý nghiêm minh trong thời gian qua chính là minh chứng cho tính thượng tôn pháp luật, chứ không phải sự “thiếu minh bạch” như họ suy diễn. Ngoài ra, họ thường sử dụng tin giả, tin cắt ghép, bình luận vô căn cứ - điều này cho thấy mục tiêu không phải góp ý mà nhằm kích động tâm lý bất mãn và chia rẽ nội bộ.
Thứ tư, đối với một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, cần dựa trên bản chất của phản biện khoa học và phản bác chính trị. Phản biện khoa học dựa trên chứng cứ, còn họ lợi dụng danh nghĩa phản biện để xuyên tạc, đánh đồng khuyết điểm cá nhân với bản chất chế độ. Thực tiễn Việt Nam cho thấy Đảng khuyến khích góp ý xây dựng nhưng kiên quyết đấu tranh với các quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận con đường XHCN. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế: mọi quốc gia đều có giới hạn trong bảo vệ an ninh chính trị và chủ quyền quốc gia.
Thứ năm, đối với các học giả hoặc tổ chức nghiên cứu mang định kiến hệ tư tưởng, cần dựa trện yêu cầu tôn trọng tính đa dạng mô hình phát triển của thế giới. Không có mô hình nhà nước pháp quyền chung cho mọi quốc gia. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam kết hợp giữa pháp trị hiện đại và giá trị nhân văn, giá trị cộng đồng, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và bản sắc dân tộc. Hơn nữa, hệ thống lý luận của Đảng đã liên tục được cập nhật, bổ sung qua các kỳ Đại hội, cho thấy sự mở, động, tiến bộ mà các học giả thiếu thiện chí cố tình phớt lờ.
Thứ sáu, đối với sự tiếp tay vô thức của một bộ phận người dùng mạng xã hội, giải pháp là cần nâng cao năng lực truyền thông, kỹ năng số và tư duy phản biện của người dân. Khi người dùng không kiểm chứng nguồn tin, họ vô tình tiếp tay cho hoạt động “diễn biến hòa bình”. Do đó, cần tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thông và hệ thống cảnh báo thông tin xấu độc; đồng thời phát huy vai trò của báo chí chính thống để định hướng dư luận và cung cấp thông tin kịp thời.
